Bài viết gồm ba phần:
I. Hình thành và mục đích của Liên Hiệp Nữ Vương Hòa Bình
II. Việc thành lập các Đan viện vùng Châu Á Thái Bình Dương
III. Các đan viện trong vùng nhưng không thuộc Liên Hiệp Nữ Vương Hòa Bình
Nội dung:
I. Hình thành và mục đích của Liên Hiệp Nữ Vương Hòa Bình
Liên hiệp Nữ Vương Hòa Bình là một cơ cấu hiệp thông giữa các Đan viện của Dòng Đa Minh thuộc Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, được Toà Thánh thiết lập (ngày 8 tháng 11 năm 2021, Prot. N. FM 184 b-1/2021), như là một pháp nhân Công và được quản trị bởi những Quy chế này. (VDQ 30; CO 86, 97)
Mục đích của Liên hiệp này là để nuôi dưỡng đời sống chiêm niệm đan tu của các đan viện hội viên theo tinh thần của Thánh Đa Minh. Nhằm củng cố tinh thần cộng tác và hiệp thông giữa các chị em với nhau, các đan viện sẽ bảo đảm sự hỗ trợ trong việc huấn luyện sơ khởi và thường huấn, cũng như việc trao đổi các nữ đan sĩ và tài sản vật chất. (HP 235 I; VDQ 30; CO 92)
II. Lược sử thành lập các Đan viện
Năm 2013, có 9 đan viện Đa Minh ở Châu Á, trong đó có hai đan viện vẫn còn đang trong quá trình hình thành, đó là Việt Nam và Ấn Độ.
1936 - Nhật Bản, Morioka
1956 - Nhật Bản, Seto
1959 - Pakistan, Karachi
1976 - Đài Loan, Pingtung Hsien
1977 - Philippines, Cainta
1977 - Philippines, Bocaue
1990 - Hàn Quốc, Baeron
2002 - Việt Nam
2002 - Ấn Độ
Các đan viện sáng lập ở Bỉ (cho Nhật Bản), Hoa Kỳ (cho Pakistan, Philippines và Việt Nam), Tây Ban Nha (cho Đài Loan, Hàn Quốc và Ấn Độ).
Vào thế kỷ 20, với bốn cơ sở trong ba mươi lăm năm, các đan viện Đa Minh đã thành công đáng kể ở Nhật Bản, dựa vào tỷ lệ người Công giáo trong dân số còn ít. Điều này chứng tỏ khó duy trì được trong thế kỷ 21, và vào năm 2011, hai đan viện đã hợp nhất. Tại những nơi khác ở Châu Á (đặc biệt là Pakistan, Việt Nam và Ấn Độ), tình trạng của xã hội ảnh hưởng đến cuộc sống của các đan sĩ ở những mức độ khác nhau.
1. NHẬT BẢN
a. MORIOKA
Dominikokai Rozario no Seibo Shûdôin, - Đan viện Đa Minh Mẹ Mân Côi
Ueda-Matsu-yashiki 2-32,
Morioka-shi, Iwate-ken,
020-0102
Japan
Được thành lập từ Đan viện Dinant (Bỉ) vào năm 1936.
Năm 1933, các đan sĩ của đan viện tại Dinant, Bỉ đã được Đức giám mục của một giáo phận người Trung Hoa ngỏ ý với mục đích thành lập một cơ sở tại Quảng Đông. Các chị em đã chấp nhận thử thách và bắt đầu chuẩn bị. Nhưng vào năm 1935, tình hình chính trị bất ổn ở Trung Hoa bắt đầu khiến dự án dường như có vấn đề. Chính vào thời điểm này, các đan sĩ Bỉ đã thấy một lời kêu gọi trên một tạp chí truyền giáo cho việc thành lập một cơ sở tại Nhật Bản. Các mối liên hệ đã được thiết lập và Vị giám mục Dòng Đa Minh (nói tiếng Pháp!) của giáo phận Hakodate ở phía bắc Nhật Bản rất vui mừng trước viễn cảnh được chào đón họ.
Và thế là sáu đan sĩ đã lên tàu tại Antwerp vào ngày 7 tháng 4 năm 1936 và đi đến Nhật Bản để bắt đầu cuộc phiêu lưu (mạo hiểm) vĩ đại nhằm thành lập các đan sĩ Đa Minh ở Viễn Đông. Địa điểm được chọn là Morioka. Mọi việc diễn ra nhanh chóng và sau một thời gian ngắn ở tại một ngôi nhà tạm thời trong thị trấn, các chị em đã có thể chuyển đến một đan viện được xây dựng cho một mục đích nhất định vào đầu năm 1939. Trong khi đó, các chị sáng lập người Bỉ đã được một đan sĩ từ đan viện Lourdes đến gia nhập và hai thỉnh sinh người Nhật Bản đến tìm hiểu, một tngười đã học ở Pháp trong bốn năm - điều này hẳn đã tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều cho việc giao tiếp.
Tất nhiên, vào thời điểm này, các chị em không hề biết rằng sẽ sớm có chiến tranh giữa quê hương mới của họ và châu Âu và họ sẽ bị giam giữ như những tù nhân. Tuy nhiên, sau chiến tranh, cơ sở mới đã phát triển mạnh mẽ và trong vòng hai mươi năm kể từ khi các chị em người Bỉ đến, người ta có thể nghĩ đến việc thành lập một cơ sở khác ở Nhật Bản.
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập, cộng đoàn Morioka đã chuyển đến đan viện mới được xây dựng theo yêu cầu ở ngoại ô thành phố. Tất cả những chị em sáng lập người Bỉ đều ở lại Nhật Bản cho đến khi qua đời, cuối cùng đã nhập quốc tịch Nhật Bản. Chị đan sĩ người Bỉ cuối cùng đã qua đời vào năm 2005. Các đan sĩ Đa Minh người Nhật Bản ngay từ đầu đã sinh sống chủ yếu bằng cách làm bánh quy theo công thức truyền thống của Bỉ.
b. SETO
Dominikokai Sei Yosefu Shûdôin, - Đan viện Đaminh Thánh Giuse
92 Higashinagane-cho,
Seto-shi,
Aichi-ken,
489-0871
Japan
Được thành lập từ Morioka vào năm 1957.
Vào tháng 5 năm 1957, sáu chị em rời Morioka để thành lập một đan viện mới xa hơn về phía Nam tại Seto trong giáo phận Nagoya. Một trong những chị sáng lập là Chị Marie du Sacrament người Bỉ, từ đan viện "nhà" Dinant. Năm sau, ba chị em nữa từ Morioka đến tham gia với họ, được phép thiết lập theo giáo luật. Cơ sở mới được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse. Các chị em mang theo công thức làm bánh quy truyền thống để từ đó họ tiếp tục sinh sống.
Vào tháng 6 năm 2011, để ứng phó với tình trạng lão hóa của các cộng đoàn và thiếu người mới gia nhập, Seto đã hợp nhất với đan viện Konan. Cơ sở này được thành lập vào năm 1971 khi cộng đoàn tại Morioka đang phát triển mạnh mẽ với hơn năm mươi chị em. Các chị em đã nghĩ đến miền tây Nhật Bản và thực sự họ đã được Đức giám mục Tanaka của giáo phận Takamatsu chào đón. Vào ngày 24 tháng 9 năm 1971, tám chị em từ Morioka chuyển đến Sanbonmatsu. Khoảng mười năm sau, cộng đoàn chuyển đến Konan, đến một đan viện mới được xây dựng, hoàn thành vào tháng 2 năm 1982 và được đặt dưới sự bảo trợ của Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Cùng năm đó, đan viện được độc lập với Morioka và được chính thức thiết lập theo giáo luật.
c. BANDAI
Được thành lập từ Seto vào năm 1969.
Cơ sở thứ ba tại Nhật Bản, được đặt dưới sự bảo trợ của Đức Bà Tuyết tại Bandai, trong giáo phận Sendai là một nỗ lực hợp tác, với hai chị từ cộng đoàn tại Morioka, đến tham gia với bốn chị sáng lập từ Seto. Các đan sĩ tại Bandai điều hành một ngôi nhà tĩnh tâm và làm bánh kẹo.
Năm 2005, bốn đan viện Nhật Bản của Dòng đã thành lập Hiệp hội Đức Mẹ lên trời của các đan viện Đa Minh tại Nhật Bản, để "sống tình đoàn kết, thúc đẩy đời sống tu trì và sinh hoa trái".
Đan viện Konan đóng cửa năm 2011 và sát nhập vào Đan viện Seto.
Đan viện Bandai đóng cửa năm 2015 và sát nhập vào Đan viện Morioka.
Đan viện Morioka đóng cửa năm 2024 và sát nhập vào Đan viện Seto, sau 88 năm âm thầm cầu nguyện cho vinh danh Nước Chúa, cho Giáo Hội và Dòng, để đem ơn cứu độ cho các linh hồn.
Hiện nay, chỉ còn lại Đan viện tại Seto, với con số nhân sự khoảng 30 đan sĩ.
Năm 2024, một ơn gọi mới đến từ Việt Nam! Trước đây em Maria Phương Oanh đã là tập sinh của Đan viện Đaminh Việt Nam (năm 2015), nay xin gia nhập Đan viện Seto. Cộng đoàn hân hoan đón nhận em như một ân ban tuyệt vời từ Thiên Chúa. Em thông thạo cả ba thứ tiếng : Anh-Nhật và Việt Nam, để trong tương lai có thể liên lạc với các Đan viện trong Liên Hiệp Nữ Vương Hòa Bình tại vùng Châu Á Thái Bình Dương. Qua sự kiện này, chị em cảm nhận được sự quan phòng yêu thương kỳ diệu của Thiên Chúa dành cho các con cái của Ngài.
2. PAKISTAN
Monastery of the Angels - Đan Viện Các Thiên Thần
Plot 213,
Landhi
Karachi 75120
Được thành lập từ Đan viện Los Angeles (Hoa Kỳ) vào năm 1959.
Vào đầu những năm 1950, Đức cha Cialeo, O.P. đến từ Pakistan đã làm quen với các đan sĩ ở Los Angeles, California. Mỗi lần đến Los Angeles, ngài đều ghé thăm cộng đoàn và hỏi các chị em có muốn thành lập một cơ sở tại Pakistan không. Vào thời điểm đó, cộng đoàn đủ lớn để xem xét yêu cầu này. Tuy nhiên, đan viện trưởng, Mẹ Mary Gabriel, không có hứng thú đặc biệt với Pakistan. Bà hướng đến Úc châu. Khi cố Hồng y Joseph Cordiero trở thành Tổng giám mục Karachi, Pakistan, một trong những quyết định đầu tiên của ngài là mời một cộng đoàn chiêm niệm đến giáo phận của mình. Đức Giám mục Cialeo nghe về mong muốn của ngài và ngay lập tức liên lạc với ngài và nói rằng ngài nghĩ mình chỉ xin cộng đoàn này.
Cuối cùng, Đức Tổng giám mục Cordiero đã chính thức mời các đan sĩ ở Los Angeles. Để lượng giá tốt hơn khả năng này, Mẹ Mary Gabriel và Sơ Mary Imelda đã đến Pakistan vào năm 1958. Cả hai đều quyết định rằng, mặc dù sẽ khó khăn, nhưng có tiềm năng cho một cộng đoàn các đan sĩ dòng kín Đa Minh phát triển mạnh ở quốc gia phần lớn Hồi giáo này. Năm 1959, sau nhiều lần chuẩn bị, Mẹ Mary Gabriel và chín chị em rời đan viện ở Los Angeles để đến Pakistan. Ban đầu, cộng đoàn tọa lạc tại Karachi, trên Đường Ingle trong một ngôi nhà khá rộng lớn. Các chị em đã học cách thích nghi với nhiều cảnh sống khác nhau mà họ gặp phải. Đó là một thời gian đầy thử thách và khó khăn. Những tiện nghi mà họ từng biết đã không còn nữa, nhưng họ đã tìm thấy sức mạnh tâm linh để vượt qua nhiều trở ngại. Cuối cùng, cộng đoàn phải chuyển đến một địa điểm cố định hơn. Họ đã làm như vậy vào những năm 1960, khi họ xây dựng một đan viện mới ở một khu vực bên ngoài thành phố.
Cộng đoàn đã trải qua nhiều khó khăn và tình huống nguy hiểm, chiến tranh, lũ lụt, v.v. Nhưng các chị em tin vào ơn gọi của mình để làm chứng về sự hiện diện của Chúa như là điều giá trị và cần thiết nhất. Họ được rất nhiều sự ủng hộ của những người bạn Hồi giáo. Hiện tại, đan viện trưởng và tất cả các chị em đều là người Pakistan.
3. PHILIPPINES
a. Cainta
Monastery of Our Lady of the Rosary - Đan Viện Đức Mẹ Mân Côi
St Martin de Porres Street,
Cainta,
Rizal 1900
Được thành lập từ Summit NJ (Hoa Kỳ) vào năm 1977.
Vào những năm 1970, một số nữ tu Đa Minh trẻ từ Philippines đã gia nhập Đan viện Đa Minh tại Summit New Jersey Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, mục đích cụ thể không phải là sau này thành lập đan viện tại quốc gia của họ. Tuy nhiên, vào năm 1972, ngay sau khi Tỉnh dòng Đa Minh tại Philippines được thiết lập theo giáo luật, một trong những chị em này, chị Mary Lusina đã viết thư cho Cha Giám tỉnh Alarcon nói rằng thật tuyệt vời khi có một đan viện của Dòng tại đất nước của họ. Trong Tỉnh hội đầu tiên được tổ chức vào cuối năm đó, viễn cảnh này đã được đề cập.
Vào ngày 10 tháng 1 năm 1973, đan viện hội của đan viện Summit đã bỏ phiếu ủng hộ một cơ sở mới với sự đồng ý để huấn luyện những người phụ nữ Philippines về đời sống chiêm niệm đan tu Đa Minh. Vào ngày 20 tháng 10 năm 1975, Chị Maria Aurea Chúa Giáng Sinh (Perez), O.P. đã được cộng đoàn chấp thuận với mục đích cụ thể là thành lập một cơ sở mới. Vì không có đủ số chị em để điều hành đan viện đã được đề xuất, những đan sĩ người Philippines đã tuyên khấn trọng tại Summit được chọn để thành lập nhóm cốt lõi dưới sự lãnh đạo của Mẹ Marie Rosaria. Vào ngày 4 tháng 8 năm 1977, năm đan sĩ - Mẹ Marie Rosaria, vị đại diện, Chị Mary Lucina, Chị Maria Agnes, Chị Maria Guadalupe và Chị Maria Aurea --- đã rời Summit. Có mặt để gặp họ là Cha Rogelio Alarcon và Mẹ Stella Salao, O.P., Bề trên Tổng quyền của Dòng Nữ Đa Minh Thánh Catherine Siena. Họ ở tại nhà mẹ của các Nữ tu Siena ở Thành phố Quezon trong khoảng ba tuần cho đến khi họ tìm thấy một ngôi nhà không mất tiền thuê thuộc về gia đình Zaide ở Thành phố Quezon. Ngôi nhà gồm bốn phòng ngủ đã được chuyển đổi thành một tu viện để các nữ tu cư ngụ trong mười tháng. Vào ngày 29 tháng 6 năm 1978, họ chuyển đến Manaoag, Pangasinan. Theo gợi ý của Cha Alarcon, Mẹ Marie Rosaria bắt đầu tìm kiếm một địa điểm phù hợp cho đan viện. Việc mua đất và xây dựng một đan viện sẽ là một khoản chi phí đáng kể vào lúc nền kinh tế Philippines đã chậm lại dưới chế độ thiết quân luật của Tổng thống Marcus. Vào thời điểm này, Cha. Jordan Aumann, O.P. và Giám mục Leonardo Legaspi, o.p. đã đến giải cứu các đan sĩ. Họ đã kiến nghị Đức Hồng y Jaime Sin tiếp nhận nhóm sáng lập vào Tổng giáo phận Manila. Đức Hồng y đã trao cho các đan sĩ một mảnh đất để sử dụng lâu dài tại Cainta, Rizal, một vùng ngoại ô của Manila. Việc xây dựng đan viện bắt đầu vào năm 1980.
b. Bocaue
Queen of Angels Monastery - Đan Viện Nữ Vương Các Thiên Thần
327 MacArthur Highway
Bocaue
3018 Bulacan
Được thành lập từ Đan viện Los Angeles (Hoa Kỳ) vào năm 1977.
Vào những năm 1970, một nhóm gồm năm nữ tu người Philippines từ Hội dòng Đa Minh Thánh Catherine Siena đã xin phép bề trên tổng quyền của họ được sống theo luật của các đan sĩ dòng kín, với khả năng sau này sẽ thành lập một đan viện Đa Minh tại Philippines. Ban đầu, các chị em được Cha Cirilo Almario, (sau này là giám mục) và Cha Harold, CP khuyến khích. Trong khi mong muốn tìm được một nơi để họ có thể sống, Đức Ông Honoring đã hiến tặng nhà cửa và cơ ngơi của mình để họ sử dụng. Cơ ngơi này nằm ở thị trấn Bocaue tại Bulacan, trong giáo phận Mololos, nơi Cha Almario mới được bổ nhiệm làm giám mục.
Các chị em chuyển đến ngôi nhà hai tầng ở Bocaue và ngay lập tức bắt đầu sống đời sống dòng kín theo Hiến pháp năm 1933, Hiến pháp duy nhất mà họ có thể tìm thấy. Sau một thời gian, họ đã tin chắc vào ước muốn trở thành những đan sĩ dòng kín Đa Minh. Sau đó, họ tiến hành tìm kiếm một đan viện sẽ chính thức huấn luyện họ theo đời sống đan tu Đa Minh. Theo gợi ý của cha Bề trên Tổng quyền Vincent de Couesnongle, sáu chị em người Philippines đã đến Đan viện Thiên thần ở Los Angeles, Hoa Kỳ để được huấn luyện một năm về đời sống đan tu Đa Minh và trở về Philippines, và khoảng một năm sau, ba đan sĩ từ đan viện sáng lập đã gia nhập với họ.
Các chị em người Philippines đã mua ngôi nhà từ Đức Ông Honoring và bắt đầu xây dựng một đan viện vĩnh viễn. Tuy nhiên, việc xây dựng đã bị trì hoãn vì nhiều cơn bão và những trận lũ lụt mà khu vực này phải trải qua. Đan viện hoàn thành đã được thánh hiến vào năm 1982; nó đã được chúc lành với nhiều ơn gọi và tất cả các chị em hiện nay đều có nguồn gốc Philippines.
4. VIỆT NAM
572 / C - Ngu Phuc, Ho Nai 3,
Trang Bom, Dong Nai,
Viet Nam
Được thành lập từ Đan viện Farmington Hills, USA vào năm 2002.
Khởi đầu của dự án xây dựng đan viện Đa Minh tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1998, khi Bề trên Tổng Quyền đương nhiệm, cha Timothy Radcliffe, đề xuất với các tu sĩ Việt Nam nhân dịp họp Tỉnh hội rằng họ nên cân nhắc việc giúp thành lập một đan viện của các đan sĩ tại đất nước của họ. Thách đố này đã được Chị Maria Rose Ngọc Hương, lúc đó là một nữ tu của Hội dòng Đa Minh Tam Hiệp đảm nhận. Sau nhiều lần viếng thăm các đan viện, Chị đã đến đan viện Blessed Sacrament tại Farmington Hills, Hoa Kỳ để khởi sự hai năm tập (1999-2001) với mục đích trở thành một đan sĩ chiêm niệm. Ngay sau đó, vào tháng 5 năm 2000, Chị Theresa Bùi Thị Tâm thuộc Hội Dòng Đaminh Thánh Tâm cũng đến Hoa Kỳ để bắt đầu thời gian năm tập huấn luyện cho đời sống đan tu Đa Minh.
Các anh em Đaminh Việt Nam đã chuẩn bị một khu đất rộng rãi với mục đích xây dựng đan viện cho các đan sĩ.
Ngày 23 tháng 10 năm 2002 được kể là ngày thành lập Đan viện Đức Maria Chúa Thánh Linh tại Việt Nam. Ngày 9 tháng 1 năm 2004, Đức Giám mục Giáo phận Xuân Lộc Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật đã cấp văn bản chính thức chấp thuận sự hiện diện của đan viện trong giáo phận của mình. Vào tháng 9 năm 2010, cộng đoàn đã nhận được sự chấp thuận đầu tiên từ chính quyền địa phương (giấy phép hoạt động Dòng tu) và vào ngày 25 cùng tháng, họ đã có niềm vui lớn lao khi chứng kiến Lễ tuyên khấn trọng thể đầu tiên của các đan sĩ Đa Minh diễn ra tại Việt Nam. Năm đan sĩ đã tuyên khấn trọng đầu tiên trong cộng đoàn đều là các Chị em Nữ tu Đa Minh hoạt động. Hiện tại, có một số chị em đang trong quá trình huấn luyện. Cộng đoàn đang chờ ngày họ có thể xây dựng một đan viện rộng lớn hơn và vĩnh viễn. Trong khi chờ đợi, họ đã xây thêm hai khu nhà hai tầng khác gắn vào ngôi nhà nhỏ hiện tại của họ.
Năm 2014 Đan viện Đức Maria Thánh Linh tại Việt Nam đã được tự trị do Sắc Lệnh của Tòa Thánh.
III. Ngoài ra, còn ba Đan viện thuộc vùng Châu Á Thái Bình Dương, nhưng không thuộc Liên Hiệp Nữ Vương Hòa Bình. Đó là các Đan viện:
1. HÀN QUỐC
Monastery of the Mother of God - Đan viện Mẹ Thiên Chúa
Baeron Sanctuary,
614 -3 Kuhak 2-Ri,
Bong Yang Myon,
Je Ch’On Gun Ch’Ung Buk (393-870)
+ 04 43 651 2906
Được thành lập từ Olmedo (Tây Ban Nha) vào năm 1990.
Vào những năm 1980, đan viện Madre de Dios tại Olmedo, Tây Ban Nha đã tiếp nhận những ơn gọi từ Hàn Quốc; đây là những phụ nữ trẻ đã gặp gỡ các anh em tu sĩ Đa Minh đang làm việc tại đất nước của họ và họ đã bày tỏ ước muốn được sống đời đan tu Đa Minh. Vào tháng 4 năm 1990, tổng cộng sáu chị em đã lên đường từ Tây Ban Nha, trong đó có ba người Hàn Quốc, để thành lập đan viện Đa Minh đầu tiên tại Hàn Quốc. Giám mục Wonju ở trung tâm đất nước đã tặng các chị em một mảnh đất ở khu vực miền núi, nhìn xuống thánh địa của các vị tử đạo Baeron ở thung lũng bên dưới. Baeron là một địa điểm hành hương nổi tiếng của người Công giáo tại Hàn Quốc. Nó nằm sâu trong một khu vực miền núi, nơi những người Công giáo Hàn Quốc đầu tiên đã ẩn náu để thoát khỏi cuộc bách hại năm 1791. Tại đây, họ đã xây dựng sáu "ngôi làng Kitô giáo", đã giữ vững đức tin của mình và sống như những người nông dân và thợ gốm. Ngoài ra, Chủng viện Baeron là học viện thần học đầu tiên của Giáo hội Công giáo Hàn Quốc, được thành lập vào năm 1856 và hiện là Đại Chủng viện Seoul.
Tóm lại, Baeron là một địa điểm lý tưởng cho các đan sĩ Đa Minh: chị em có đất, có nhân sự nhưng không có tài chánh. Trong hai năm, chị em sống tại đây trong một ngôi nhà tiền chế nhỏ. Họ đã kêu gọi các giáo xứ khá giả ở Seoul và đã có thể bắt đầu xây dựng khá nhanh chóng. Đan viện đã hoàn thành và được tự trị vào tháng 2 năm 1993. Cộng đoàn đang phát triển mạnh mẽ và vẫn duy trì mối liên hệ với nhà mẹ tại Tây Ban Nha, thường xuyên gửi các chị em đến Olmedo để đào tạo.
2. ĐÀI LOAN
Monastery of the Mother of God - Đan viện Mẹ Thiên Chúa
40 Wansheng Road,
Wanchin Wanluan Hsiang,
Pingtung Hsien
Được thành lập từ Đan viện Olmedo (Tây Ban Nha) vào năm 1976.
Đan viện Đa Minh ở giáo phận Kaohsiung, Đài Loan thuộc nhóm đan viện Unione fraterna de la Madre de Dios có trụ sở tại Olmedo, Vallodolid, Tây Ban Nha. Thật vậy, các tu sĩ Đa Minh người Tây Ban Nha đã có mặt ở Đài Loan từ năm 1859 khi họ đến với tư cách là những nhà truyền giáo từ Philippines. Các nữ tu Đa Minh người Tây Ban Nha đến vào năm 1903 và các anh em tu sĩ người Đức và các nữ tu Đa Minh người Thụy Sĩ đến vào những năm 1960. Và vì vậy, nói rằng ước mong có một đan viện của các đan sĩ dòng kín ở Đài Loan để hoàn thiện gia đình Đa Minh cũng là điều bình thường.
Nhóm sáng lập đầu tiên từ Olmedo định cư tại Tailao, nhưng vào cuối những năm 1990, họ chuyển đến các tòa nhà đan viện mới, phù hợp hơn với nhu cầu của cộng đoàn đang phát triển. Đan viện mới này nằm rất gần Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, một nơi hành hương của người Công giáo Đài Loan. Lịch sử của nhà thờ này trùng với thời kỳ truyền giáo lần thứ hai của đảo Đài Loan, nhờ công lao của các nhà truyền giáo Đa Minh người Tây Ban Nha, và đặc biệt là Cha Fernando Sainz. Năm 1861, ngài bắt đầu sứ vụ của mình giữa Kaohsiung và Wan Chin. Năm 1863, một nhà thờ nhỏ được xây dựng bằng bùn bởi những tu sĩ Đa Minh người Tây Ban Nha này, tám mươi ba người đã được rửa tội và do đó trở thành tín hữu địa phương đầu tiên. Trong trận động đất năm 1865, nhà thờ đã sụp đổ và một nhà thờ khác được xây dựng lại và được thánh hiến vào ngày 8 tháng 12 năm 1870. Vương cung thánh đường được một tu sĩ Đa Minh người Tây Ban Nha chăm sóc và làng Wanchin là cộng đoàn duy nhất ở Đài Loan có đa số người Công giáo. Không khó để thấy rằng đây là lựa chọn lý tưởng về địa điểm cho các đan sĩ Đa Minh, và thực sự cộng đoàn này rất lớn và phát triển mạnh với nhiều ơn gọi người Trung Quốc.
Hai Đan viện này thuộc Liên Hiệp Mẹ Thiên Chúa, gồm nhà mẹ Olmedo tại Tây Ban Nha và tất cả các “đan viện con” trên toàn thế giới, do phép ban đặc biệt của Tòa Thánh, không phân biệt ranh giới quốc gia, lãnh thổ.
3. ẤN ĐỘ
Sancta Maria - Thánh Maria
Perumpuzha P.O.
Keralapura, Kollam Dist.
Kerala 691 504
+ 91 474 254 6465
Được thành lập do Đan viện Cangas (Tây Ban Nha) vào năm 2002.
Năm 2002, Cộng đoàn đan sĩ Đa Minh tại Cangas del Narcea (Tây Ban Nha) đã quyết định mở một ngôi nhà tại Ấn Độ, ở Kerala, phía nam đất nước, nuôi dưỡng lý tưởng rằng một ngày nào đó sẽ có một đan viện chiêm niệm tại Ấn Độ. Theo một thỏa thuận với cha Carlos Azpiroz, khi đó là Bề trên Tổng quyền, đã quyết định rằng những tập sinh trẻ, người mà một ngày nào đó sẽ thành lập Cộng đoàn Ấn Độ, sẽ được huấn luyện đời sống tu trì của họ tại đan viện sáng lập Cangas.
Những năm đầu của thanh tuyển viện, thỉnh viện và năm tập đầu tiên đã được thực hiện tại Ấn Độ. Sau đó, ba tập sinh tiên khởi đã đến Tây Ban Nha để làm năm tập theo giáo luật và ba năm khấn tạm. Trong khi đó, đan viện ở Ấn Độ vẫn mở cửa, với một đan sĩ từ Tây Ban Nha và một trong những chị em đã khấn tạm từ Ấn Độ (làm phiên dịch) để tiếp đón những cô gái trẻ muốn gia nhập. Quá trình này vẫn tiếp tục, và ngày nay vẫn còn một số chị em đang trong quá trình huấn luyện tại Tây Ban Nha.
Ngày 9 tháng 10 năm 2010 là một ngày rất đáng nhớ đối với cộng đoàn người Ấn Độ này; những lời tuyên khấn trọng thể đầu tiên đã được thực hiện trước sự hiện diện của cha Brian Pierce, Tổng đặc trách các Đan sĩ Đaminh.
Đan viện này cho tới nay vẫn trực thuộc đan viện Cangas, Tây Ban Nha, chưa trở thành đan viện tự trị, nên không gia nhập Liên Hiệp Nữ Vương Hòa Bình.