“Hãy lặng thinh trước mặt CHÚA và đợi trông Người.” (Tv 37,7)
“Ai nhìn lên CHÚA sẽ vui tươi hớn hở”. (Tv 33,6)
“Con tìm thánh nhan Ngài, xin tỏ cho con thấy thánh nhan Ngài. (Tv 26,8)
“Niềm vui lớn lao nhất của con người là chiêm niệm chân lý. Mọi niềm vui đều làm dịu nỗi đau. Do đó, chiêm niệm chân lý làm vơi đi nỗi buồn và đau khổ.” — Thánh Tôma Aquinô, Tổng Luận Thần Học (ST, I-II,38,4)
_Đan viện Đa Minh chuyển ngữ_
1. Bro. Ángel Melcón, OP, Dominicanismo, Nhà xuất bản, Parroquia Universitaria, Mexico, 1970
Rao giảng chiêm niệm
Để đạt được và duy trì sự vững chắc về đạo lý, Thánh Đa Minh đã đưa vào Dòng của ngài những giá trị của đời sống chiêm niệm truyền thống, đặc biệt là thích nghi và nhấn mạnh các công cụ huấn luyện tri thức, không phải vì lợi ích của sự uyên bác đơn thuần, nhưng như một sự chuẩn bị nghiêm túc và không thể thiếu cho việc chiêm niệm. Bản thân ngài ngay từ đầu, đã học hỏi rất nhiều, đã chọn làm châm ngôn cho mình và cũng muốn ghi vào Hiến pháp của Dòng một châm ngôn của thánh tu sĩ chiêm niệm nổi tiếng Stêphanô Muret: “Chỉ nói với Thiên Chúa và nói về Chúa.” Điều này phù hợp với công thức mà sau này Thánh Tôma trình bày: “Chiêm niệm và chuyển trao cho người khác điều mình đã chiêm niệm.” Không phải như hai việc tách biệt, nhưng là một chức năng sống duy nhất: chiêm niệm đầy tràn và làm giàu cho chính nó trong ân huệ tông đồ; hay việc rao giảng trôi chảy chân thành và chân thực phát sinh từ sự trọn vẹn của chiêm niệm. Hay thậm chí trong một công thức vắn gọn hơn của Thánh Âu tinh, ơn gọi của chúng ta là “caritas veritatis” (tình yêu chân lý). Chiêm niệm được sinh ra từ tình yêu, và tình yêu chân lý, là điều thiện hảo cao cả nhất mà con người có thể đạt tới, có xu hướng lan toả nhờ chính đức tính của bản chất con người.Điều này có ý nghĩa quan trọng trong truyền thống Âu tinh chính thống. Thánh Đa Minh đã trả lời một người bạn sinh viên khi anh ta hỏi ngài về cuốn sách mà ngài đã học những điều kỳ diệu ấy: “Tôi học đặc biệt nơi cuốn sách của Đức Ái.” Thực ra, như chúng ta biết tuy ngài “học rất nhiều”, nhưng việc giảng thuyết của ngài không trực tiếp đến từ sách vở, mà từ chính sự chiêm niệm. Và sự chiêm niệm này được sinh ra và hoàn thành trong tình yêu.
Một chứng nhân trong tiến trình phong thánh của Thánh Tôma kể rằng: “Ông thấy ngài giảng suốt cả mùa Chay với đôi mắt nhắm nghiền và chiêm niệm...” Đối với Thánh Tôma, hoạt động rao giảng hay dạy học không ngừng là kết quả của việc thực hành chiêm niệm. Do đó, không chỉ như một nhà giảng thuyết, mà còn như một nhà giáo dục, “Thánh Tôma là một nhà giáo dục hoàn hảo, bởi vì ngài không chỉ là một nhà giáo vì nơi ngài bài giảng mang tính sư phạm hoàn toàn bắt nguồn từ những đỉnh cao đơn giản nhất của chiêm niệm.”
Bản chất chiêm niệm này của Dòng Đa Minh là điều có thể biện minh cho “chủ nghĩa duy lý trí”, đôi khi bị coi là tội lỗi, và là một đặc quyền cao quý và thánh thiện. Cần phải hiểu đặc tính trí thức này ở mức độ thích hợp, như chính Thánh Đa Minh – một học giả, một người đọc sách không mệt mỏi, đã áp dụng nó cho Dòng của mình và ngài mặt khác hoặc có lẽ chính vì điều này, đó là - “chỉ nói với Chúa hoặc về Chúa mà thôi.”
Đặc tính trí thức của Dòng có nghĩa là chuyên cần trau dồi học hành như một yếu tố thiết yếu trong dự phóng đời sống của chúng ta, sự cống hiến cho việc giảng dạy như một phần cốt lõi của ơn gọi của chúng ta, cùng với việc tham gia tích cực tương ứng vào nghiên cứu và hợp tác khoa học, tất cả để dẫn dắt con người đến sự hiểu biết cao hơn về đức tin và chân lý của Phúc Âm. Cùng một sự “trưởng thành” trong đức tin và ý thức trách nhiệm đi kèm phải thúc đẩy mọi công việc giảng thuyết của chúng ta.
Do đó, định hướng và đặc tính trí thức ấy của Dòng luôn phải phục vụ và dẫn đến “sự viên mãn của chiêm niệm.” Chỉ khi đạt đến đỉnh cao này, và trong phạm vi đạt được, thì “sự hiểu biết cao hơn và sự trưởng thành về đức tin”, mục tiêu của những nỗ lực rao giảng của chúng ta, mới có thể đạt đến được và nếm cảm được. Chiêm niệm Kitô giáo, như sự trưởng thành và tỏa sáng niềm vui của đức tin, không thể vẫn là đặc quyền của một số ít người, nhưng lý tưởng của chúng ta, là phải trở thành ơn gọi và gia sản bình thường của mọi người đã chịu phép rửa tội, những ai hiểu được sự cao cả của Kinh Lạy Cha và thái độ cầu nguyện say mê của Đức Giêsu “ngủ trong cầu nguyện” cho đến khi trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống. Vì chúng ta không được quên rằng chiêm niệm trọn vẹn chính là chiêm niệm thần bí đích thực, hoa trái của các nhân đức đối thần và ơn của Chúa Thánh Thần, chứ không chỉ là “thành quả” của sự nỗ lực hay sự suy tư kiên nhẫn của con người. Đó chính là sự chiêm niệm mà đã được Thánh Âu tinh, là người cha và cũng là vị thầy của chúng ta mô tả một cách vô song, và Thánh Tôma đã tìm đến để biên soạn một cách công phu công thức của mình, thần học về đời sống chiêm niệm của mình.
Sự chiêm niệm trọn vẹn này, vốn biện minh cho sự cống hiến trí thức trọn vẹn, hơn nữa thì lại khác xa với kiểu “chủ nghĩa trí thức” thuần túy. Trong sự trọn vẹn, nó thậm chí không phải chỉ là kết quả hay sản phẩm của trí tuệ, mà là một hành động khôn ngoan – một thói quen cao siêu của sự hiểu biết con người, đồng thời là ơn cao cả của Thánh Thần. Ơn này kiện toàn nhân đức chính yếu và là linh hồn của mọi nhân đức: bác ái. Vì thế, khôn ngoan, bác ái, chiêm niệm là ba điều không thể tách rời. “Bác ái là nguyên lý và động lực; khôn ngoan không chỉ là kiến thức trí tuệ, mà còn là một kiến thức gắn với tình cảm, làm say mê và là hương vị; và chiêm niệm đúng nghĩa là sự viên mãn của sự thông suốt và sự hiểu biết vui vẻ về chân lý: đó là một cuộc thần kiến sâu sắc, yêu thương, an bình, như một lâu đài đạt đến được bằng những cấp bậc nhất định vốn đi trước và chuẩn bị cho nó, tràn đầy niềm vui và sự hân hoan thanh thản, như một bản sao hay một sự tỏ hiện của vẻ đẹp vĩnh cửu của Thiên Chúa Ba Ngôi.”
Và khi đạt đến cấp độ tột bậc này, Thánh Âutinh kết luận: “Niềm vui trong chiêm niệm chân lý này vĩ đại đến nỗi – bất kể hiểu được nhiều hay ít – sự trong sáng và rõ ràng thật lớn lao, niềm tin chắc chắn vào những điều được thấy đến nỗi không ai còn nghĩ mình đã từng biết gì trước đây, khi tưởng rằng mình đã hiểu biết điều gì đó; thậm chí, người ấy mong ước gỡ bỏ mọi chướng ngại ngăn cản sự hợp nhất trọn vẹn với toàn thể chân lý, như lợi ích tối cao, chính là cái chết mà trước đây người ta lo sợ, tức là sự giải thoát và tự do tuyệt đối khỏi thân xác.”
Nhưng hiển nhiên, đó không chỉ là vấn đề chiêm niệm như một hành động đăng quang hay như một sự viên mãn đã đạt được. Việc chiêm niệm này giả định một số “mức độ” hay những giai đoạn nhất định chuẩn bị cho nó, nó cần sự nuôi dưỡng của con người, một bầu khí và môi trường thiêng liêng (phụng vụ, cầu nguyện, học tập). Và trong trường hợp của chúng ta, chiêm niệm lại trở thành nguồn mạch và bảo đảm cho sự chân thành trong hoạt động tông đồ. Chiêm niệm phát sinh từ tình yêu, từ nỗi thao thức yêu mến, thôi thúc chúng ta tìm kiếm vẻ đẹp thần linh. Vậy nên, toàn bộ cuộc sống, chứ không chỉ tâm hồn hay trí tuệ, mới là chiêm niệm.
Vì vậy, mặc dù chiêm niệm về cơ bản hệ tại ở việc vận dụng trí tuệ, nhưng nó lại bắt đầu từ ý chí, vì chính tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy sự chiêm niệm. Do đó, mục đích và kết thúc phải được tìm kiếm trong tình cảm, niềm vui do cuộc thần kiến của một đối tượng được yêu thương tạo ra càng làm tăng thêm tình yêu của nó. Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân chính là điều kiện tiên quyết và đối tượng của chiêm niệm. Vậy nên, chiêm niệm khởi đi từ ý chí, nhưng được thực hiện bằng trí tuệ. Chính tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy chiêm niêm. “Càng nhìn thấy Đấng được yêu, thì tình yêu càng được thắp sáng.” (Thánh Grêgôriô Cả, trích trong ST II-II, 180, 7 ad).
Ngay cả trong khoảnh khắc cao nhất, đời sống chiêm niệm này không bao giờ là sự xa lánh hay trốn tránh những cam kết thông thường của thế giới này, nhưng trái lại, nó là khởi điểm và động lực cho một cam kết lớn hơn, có lợi hơn. Thánh Âu tinh viết: “Sự nhàn rỗi chiêm niệm không phải là lý do để bỏ qua ích lợi của tha nhân... Trong sự nhàn rỗi ấy, ta không được yêu thích sự thụ động, mà phải tìm kiếm và gặp gỡ chân lý... Tình yêu chân lý tìm kiếm sự nhàn rỗi thánh thiện; nhưng đòi hỏi của đức ái lại bắt chúng ta dấn thân phục vụ.”
Về phần mình, Thánh Tôma giải thích một cách sinh động hơn và trực tiếp hơn với chúng ta về tính tông đồ trong đời chiêm niệm này và trình tự của việc chiêm niệm.
Ngài nói: “Sự hoàn hảo tuyệt đối của tình yêu đạt được khi người yêu có khả năng từ bỏ niềm vui do sự hiện diện của người mình yêu đem cho mình để mưu cầu điều tốt lành và phục vụ chính người mình yêu. Ví dụ, khi vì đức ái là động lực của chiêm niệm, có thể từ bỏ nó với niềm vui tột độ, trước những đòi hỏi của lòng nhiệt thành vì ơn cứu rỗi và lợi ích của nhân loại. “Và chính đây là sự hoàn hảo đích thực …dành cho người giảng thuyết”, để chiêm niệm, để tiếp thu một cách trưởng thành điều đã học, thưởng nếm nó trong tĩnh lặng và thân mật với Thiên Chúa, rồi nói về điều đó với lòng xác tín nồng nàn của một người nói không phải bằng công thức từ sách vở, mà bằng nhiệt thành và hăng hái của đức tin và sự tinh tuyền của Tin Mừng. Hãy hình dung bài giảng của Thánh Đa Minh, hoặc bất cứ tu sĩ Đa Minh nào, dù đã được phong thánh hay còn đang sống, người mà “trên hết đã học trong cuốn sách của Đức Ái”.
Theo cách này, hành động rao giảng của chúng ta không áp đặt lên chúng ta như một sự thay thế hay cản trở chiêm niệm, mà như một điều gì đó được thêm vào một cách tự nhiên, một bài tập thông thường “trợ giúp và điều chỉnh chúng ta hướng đến sự chiêm niệm chân thật hơn”. Điều này, đến lượt nó cũng sẽ làm cho công việc lao nhọc bên ngoài không thể tránh khỏi trở nên vừa ý và dễ chịu hơn, và mặt khác như một sự làm giàu nội tâm nhờ áp dụng Lời Chúa, cũng bảo đảm rằng lời giảng của người giảng thuyết không trở nên trống rỗng hay vô ích.
Như thế, có một mối liên hệ sống động và bất khả phân ly cho chúng ta giữa hành động thừa tác và chiêm niệm. Xét về giá trị theo nghĩa tuyệt đối thì chiêm niệm đứng trước; nhưng trong chúng ta, trong quá trình đào luyện, hoạt động lại đi trước chiêm niệm. Rồi sau đó, chiêm niệm lại chiếu sáng và định hướng hoạt động. “Chiêm niệm và chia sẻ điều đã chiêm niệm” là hai nhịp điệu thường hằng trong một nhịp sống duy nhất của người Đa Minh, tựa như việc hít vào và thở ra, như tâm thu và tâm trương theo thứ tự sinh lý.”
Chúng ta đã nói rằng: chiêm niệm cần được nuôi dưỡng, một bầu khí và môi trường thiêng liêng. Người giảng thuyết hay người chiêm niệm, sẽ thường được tìm thấy dưỡng chất đó trước hết trong phụng vụ và học tập.
2. Bro. Raniero Cantalamessa O.F.M., Chương: về Mầu nhiệm Biến hình, Nhà xuất bản Monte Carmelo, Tây Ban Nha, 2003
Trong chiêm niệm, chúng ta được biến hình. Để một biến cố trong cuộc đời Đức Giêsu trở thành một mầu nhiệm, thì “điều gì đó xảy ra nơi Đức Kitô” là chưa đủ; mà biến cố này còn cần có ý nghĩa cứu độ cho toàn thân mình của Người, nghĩa là có giá trị mẫu mực và tác động liên quan với Hội Thánh. Vào lễ Biến hình, Hội Thánh không chỉ cử hành sự biến hình của Đức Kitô, mà còn cả sự biến hình của chính Hội Thánh nữa. Sự biến hình nào? Trước hết, là sự biến hình cánh chung, sẽ xảy ra vào ngày tận cùng, khi Chúa Giêsu, như thánh Phaolô nói “sẽ biến đổi thân xác hèn mọn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Như Proclus thành Constantinopolis nói: “Đức Kitô đã biến đổi hình dạng để cho chúng ta thấy trước sự biến hình trong tương lai của bản tính chúng ta và cuộc Quang lâm của Người.” (Trích Bài giảng về Chúa Biến hình, 8,2 PG 65,768). Cái nhìn này cũng có nơi các Giáo phụ Tây phương (như thánh Lê ô Cả, trong các Bài giảng).
Nhưng sự Biến hình của Đức Kitô không chỉ ảnh hưởng nơi thân xác Người ở đời sau, mà ngay trong đời này. Thánh Phaolô đã hai lần dùng động từ “biến hình” (trong tiếng Hy Lạp “biến hình” và “biến đổi” là cùng một từ) để chỉ các Kitô hữu, và cả hai lần đều nói đến một điều diễn ra ngay bây giờ, ở đây: “Anh em hãy được biến đổi nhờ đổi mới tâm trí” (Rm 12,2). Thánh Phaolô giải thích điều này diễn ra như thế nào: “Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chiêm ngắm vinh quang Chúa như trong một bức gương, được biến đổi nên giống hình ảnh Người, từ vinh quang này đến vinh quang khác, nhờ quyền năng của Thần Khí Chúa.” (2Cr 3,18). Qua chiêm niệm, giờ đây chúng ta có thể bước vào mầu nhiệm Biến hình, biến nó thành của riêng mình và tham dự vào đó.
Theo thánh Tông đồ trong (1Cr 12,12), thậm chí còn phải nói thêm. Con người không chỉ “phản chiếu” điều mình chiêm ngắm, mà còn “trở nên chính điều mình chiêm ngắm.” Trong việc chiêm ngắm, chúng ta được biến đổi thành chính hình ảnh mà ta chiêm ngắm. Tư tưởng này càng rõ ràng hơn trong thời đại hôm nay. Nếu như trước đây, vào thời kỳ bắt đầu của chủ nghĩa duy vật khoa học (vào giữa thế kỷ XIX khi bảo vệ thuyết tiến hoá và khoa học tự nhiên; thế giới chỉ là những lực lượng vật lý và những thực thể tự nhiên, được nghiên cứu bởi khoa học tự nhiên) – người ta nói: “Con người là những gì họ ăn”, thì giờ đây trong nền văn minh bị chi phối (điều khiển) bởi hình ảnh và truyền thông thị giác, chúng ta phải nói: “Con người là những gì họ nhìn ngắm.” (homo sapiens – người tinh khôn: thì biết; homo faber – người trung cổ: thì làm, chế tạo; homo videns - người hiện đại: nhìn ngắm). Hình ảnh có sức mạnh xuyên thấu không chỉ cơ thể, mà cả tâm hồn, thông qua trí tưởng tượng. Đôi mắt là “ngọn đèn của thân thể” (Mt 6,22), nhưng đồng thời cũng là cửa ngõ của linh hồn.
Vì thế, khi chiêm ngắm Đức Kitô, thánh Phaolô nói, chúng ta trở nên giống Người, chúng ta làm cho chính mình nên giống Người, chúng ta để cho thế giới của Người, mục đích của Người, tâm tình của Người in dấu trên chúng ta, thay thế những tư tưởng, mục đích và tình cảm của chúng ta, để làm cho chúng ta trở nên giống Người. Điều này xảy ra trong chiêm niệm giống như trong nhiếp ảnh, và thật thú vị khi khám phá ra rằng hạn từ “chụp hình” (photographing) lần đầu tiên xuất hiện nơi một tác giả Byzantine thế kỷ XII, và chính xác là để mô tả điều xảy ra khi linh hồn chiêm ngắm Đức Kitô. Ông nói cách cẩn thận: “Chúng ta hãy gìn giữ, tấm gương linh hồn, trong đó Đức Giêsu Kitô, sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa, thường được in dấu và được chụp lại (‘photeinographein’).” (Philotheus Sinaiticus, Bốn mươi chương, 23 (trong "Philokalia", tập 1, Athens, 1893, trang 371). Nhưng đây chẳng phải là những gì chúng ta tự nhìn thấy sao? Một số hình ảnh nhất định có sức khắc sâu trong tâm trí chúng ta và tồn tại ở đó như những dòng chữ graffiti trên vào tường bê tông.
3. Nữ đan sĩ Đa Minh tại một đan viện ở Argentina
Các nữ đan sĩ dạy chúng ta cách tìm kiếm Thiên Chúa: trong cô tịch của cầu nguyện, trong tình yêu của thinh lặng và cộng đoàn, cũng như trong chiều sâu của việc học hỏi. Chúng ta noi theo gương Thiên Chúa bằng cách sử dụng tốt hơn từng đặc điểm của tâm hồn và trí tuệ. Tất cả các thành viên của Dòng được mời gọi siêng năng thinh lặng cầu nguyện, nhưng đối với các nữ tu chiêm niệm Đa Minh, đây là một sứ mạng cốt yếu. Một chị đã viết: “Tôi không bước vào đan viện để trốn chạy thế giới, để quên nó, hay thậm chí để bỏ mặc sự hiện hữu của nó, nhưng để hiện diện trong đó một cách sâu xa hơn, để sống ở trung tâm của thế giới, trong ẩn khuất, nhưng theo một cách mà tôi tin là chân thực hơn. Tôi không đến đây để tìm một đời sống êm đềm, thoải mái hơn, nhưng để chia sẻ và gánh lấy nỗi đau khổ và niềm hy vọng của toàn thể nhân loại.” Đời sống hằng ngày của chị được đánh dấu bằng việc tìm kiếm chân lý qua học tập, chiêm niệm và cầu nguyện liên lỉ cho sứ mạng loan báo tin mừng của Dòng. Hai chiều kích này là nền tảng và ý nghĩa của đời sống cộng đoàn của mỗi đan viện Đa Minh.
Một bầu khí cầu nguyện bao phủ mọi đan viện. Mỗi nữ đan sĩ đều đã gặp gỡ Chúa theo một cách nào đó, và những năm tháng chiêm niệm trong thinh lặng chung của các chị là hành trình để hiểu sâu hơn về Đấng các chị đã gặp, để hiểu rõ hơn về Đấng mà mình đã gặp gỡ, Người đòi hỏi gì ở các chị, và những gì các chị phải làm gì để đáp trả trọn vẹn Thiên Chúa mà các chị đã gặp gỡ. “Trong cầu nguyện, các chị đã biết Chúa sâu xa hơn, và cũng chính trong cầu nguyện, các chị hiểu đầy đủ ý nghĩa của tiếng gọi, ý nghĩa của ơn gọi. Những khoảnh khắc rảnh rỗi trong ngày có thể trở thành những lúc không làm gì cả, ngoài việc ‘ngồi yên trước mặt Chúa và kiên nhẫn đợi trông Ngài’ (Tv 37,7). Đó chính là mục đích của chiêm niệm.” Trong chiêm niệm, các nữ đan sĩ mang lấy mối bận tâm và vấn đề của nhiều người. Hằng ngày trong sự chiêm niệm của các nữ đan sĩ, họ mang lấy những mối bận tâm của người khác, mà nhiều người trong số họ các chị không hề quen biết, chính là một sự phục vụ tha nhân không thể bị xem thường.
Lấy từ nhiều nguồn văn khác nhau
Fr. Fernando García Fernández, OP
