Bạn và Tôi
Với không gian nhỏ bé của Đan viện thì không vị trí nào thuận tiện để đón ánh nắng mặt trời buổi sáng lý tưởng cho bằng trên mái nhà. Không vật nào có thể cản được những tia nắng nhẹ nhàng bao phủ trên tôi. Như hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời, tôi cũng tranh thủ nhắm mắt để hứng lấy dưỡng chất của ánh nắng đầu ngày mới. Tôi nhủ thầm “Ôi Giêsu, mặt trời không xế bóng. Ngài là nguồn hy vọng, xin bao phủ con bằng ánh sáng hy vọng của Ngài”. Ngồi thư giãn một chút, phóng tầm mắt quanh bốn phía, tất cả chỉ thấy mái nhà. Ồh, chợt hiện lên trong trí tôi hình ảnh anh bại liệt được bốn người khiêng đến với Đức Kitô. Tôi ngồi miên man hồi tưởng lại đoạn Tin mừng Mc 2,1-12 và hôm nay tôi chú ý đến 4 người vô danh kia, những người đã thắp sáng niềm hy vọng cho anh bại liệt.
1. Lời nhắn nhủ của các thánh.
Dạo qua thư của thánh Giacôbê Tông đồ, ngài viết “Đức tin không có hành động quả là đức tin chết”(Gc 2,17). Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày mà có ai trong anh em lại nói với họ “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần thì nào có ích lợi gì”(Gc 2,15-16).
Thánh Phaolô căn dặn “Khi làm điều thiện chúng ta đừng nản chí” (Gl 6,9).
Và không thể thiếu lời khuyên nhủ của vị Tông đồ trưởng:“Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).
Lược qua một số lời nhắn nhủ của các vị thánh Tông đồ để ướm vào bốn người trong đoạn Tin mừng. Họ đã sống từ đức tin đến hy vọng như các Tông đồ truyền dạy và là chứng tá niềm hy vọng cho chúng ta. Họ không chỉ làm một việc tốt vào thời đó, nhưng việc làm của họ vẫn là bài học đắt giá cho chúng ta ngày hôm nay. Họ trở thành những con người truyền lửa hy vọng cho người khác.
2. Hình mẫu hy vọng.
Nếu đặt bốn người trong đoạn Tin mừng lên “sàn catwalk’’ chắc chắn sẽ không được nhiều người chú ý. Và theo như Tin mừng thì chắc chắn họ là những người bình dân vai u thịt bắp, vì hành động của họ phác họa lên điều đó. Nhưng những người nổi tiếng dần sẽ phai mờ, còn bốn người này tuy vô danh nhưng mãi tồn tại và đồng hành với con người mọi thời đại. Vì chính lòng tin và niềm hy vọng của họ vào Đức Kitô là điều duy nhất giúp con người tìm được ý nghĩa cuộc sống và giá trị về sự hiện diện của mình và của người khác.
Theo những khuôn khổ sẵn có để được an toàn đó là cám dỗ của mọi thời, nhưng nhờ lòng tin và niềm hy vọng vào một người tên là Giêsu, bốn người đó đã dám có những bước đột phá mới. Họ dám mở cánh cửa lòng mình để đến với người anh em. Họ sẵn sàng mang gánh nặng cho nhau. Họ đã thể tình huynh đệ chân thành theo lời khuyên của thánh Phêrô (x.1Pr 22). Bốn người đã đồng tâm nhất trí thông cảm cho đau khổ của người anh em, không lẩm bẩm kêu ca, họ đã cùng nhau cáng anh bại liệt đến với Đức Kitô. Họ không tìm sự an toàn cho riêng mình nhưng sẵn lòng liên lụy cùng anh bại liệt. Nếu một trong bốn người không đồng tình tham gia thì khó khăn sẽ xảy ra cho những người còn lại và nhất là cho anh bại liệt. Cơ hội được chữa lành sẽ khó đến với anh. Nhưng tất cả đều một lòng một ý và như vậy họ đã vượt qua những thách đố để tiến đến đích.
Thách đố thứ nhất là sức nặng của cái chõng và anh bại liệt. Thách đố thứ hai là đám đông. Bình thường thì một mình chúng ta có thể lách qua đám đông một cách nhanh chóng, nhưng đây là bốn người cộng thêm cái chõng chiếm rất nhiều không gian và vướng lối. Dẫu thế, với sức mạnh đang tiềm tàng, chắc chắn họ cũng cố gắng len lỏi được chút ít. Nhưng vì dân chúng quá đông, người mong chữa bệnh cũng rất nhiều nên cơ hội đến với anh bạn bại liệt sẽ khó hơn. Từ cái khó đó, sức mạnh của lòng tin và niềm hy vọng lại càng sáng lên nơi bốn người này. “Cái khó ló cái hay!”. Một sự sáng tạo, một sự chuyển hướng đầy liều lĩnh. Lúc này, niềm hy vọng như tấm bản đồ, mở ra cho họ những “lối rẽ” mới. Và với lòng tin, họ đã can đảm “rẽ lối” khác để đạt được mục đích chính đáng của mình. Người ta thường nói “Chúa đóng cửa chính, Chúa sẽ mở cửa sổ cho”. Còn đây, hành động của các ông nói lên rằng “Khi Chúa đóng cửa chính, Chúa đóng cả cửa phụ thì con sẽ lên mái nhà để tìm gặp Chúa”. Các ông đã quyết định thực hiện một hành động đầy mạo hiểm. Đó là thử thách thứ ba. Các ông chọn “đi trên con đường chẳng mấy ai đi”, đó là đi trên mái nhà. Đây là một hành trình khó hơn nhiều và đầy nguy hiểm cho các ông và đặc biệt cho anh bại liệt. Để thành công, từng hành động phải rất nhịp nhàng, phối hợp phải rất ăn khớp với nhau mới có thể đạt kết quả. Ngày ấy, không có máy móc cân chỉnh độ chuẩn xác để lên xuống nhẹ nhàng như ngày nay. Tất cả các ông đều làm bằng sức khỏe cơ bắp và chính sự khéo léo của mình. Các ông đã không nản lòng nản chí dù đó là một việc khó. Nhưng tất cả vì người anh em, vì ước muốn mạnh mẽ và lòng tin tưởng tràn đầy hy vọng chắc chắn là anh bạn mình sẽ được chữa lành. Và thành quả đã như họ mong muốn. Chúa Giêsu đã không thể không nhìn đến lòng tin và niềm hy vọng của họ. Nơi bốn người khiêng vô danh này, họ chờ đợi, họ khao khát, không phải cho chính mình mà cho người khác. Kinh thánh nói: “Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Kitô bảo anh bại liệt: ‘Hãy đứng dậy vác chõng mà đi về nhà’ (Mc 2,11). Sau đó, Kinh thánh không nhắc gì đến bốn người này nữa. Nhưng qua hành động của họ, họ đã trả lời cho những người thời đó và con người mọi thời đại về niềm tin và niềm hy vọng của họ vào Đức Giêsu. Họ sẽ mãi là vì ân nhân của anh bạn liệt, những người giúp anh tìm lại được hy vọng và niềm vui cho cuộc sống. Còn bạn và tôi thì sao?
3. Đánh thức hy vọng
Nhìn vào bức tranh của đoạn Tin mừng và bối cảnh toàn diện bức tranh của con người ngày hôm nay, ta thấy một sự đối lập. Trong đoạn Tin mừng “Hay tin Người ở nhà, dân chúng tụ tập lại, đông đến nỗi ngoài cửa không còn chỗ đứng”(Mc 2,2). Còn hiện tại, thánh đường trở nên “yên tĩnh hơn”, “không gian lạnh lẽo hơn”. Bởi người ta không còn đến đền thờ, không coi thánh đường là nơi gặp gỡ Đấng ban Lời Hằng Sống cho ta. Đấng luôn đồng hành với ta trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống. Đấng là Cha ta và ta là con của Người. Nếu thánh đường nào đó tụ tập đông đảo rộn ràng tiếng cười nói thì đó cũng vào những ngày lễ hội, hay là nơi để người ta thăm quan du lịch.Trong Tông Huấn “Niềm vui của Tin mừng” số 49, Đức giáo hoàng Phanxicô viết: “Nếu có cái gì khiến chúng ta trăn trở và áy náy lương tâm thì đó chính là sự kiện nhiều anh chị em chúng ta đang sống mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi phát sinh từ tình bạn với Đức Giêsu”. Thật thế, với thế giới đang bị “bão xoáy” của trào lưu hưởng thụ; dòng nước chảy xiết của chủ nghĩa cá nhân; cơn gió lốc của thuyết tương đối và sự phát triển nhanh vượt bậc của trí tuệ nhân tạo ảnh hưởng rất mạnh đến cuộc sống con người về đức tin và luân lý. Nó làm “bật gốc” hàng loạt những cây tưởng như “đã cắm rễ sâu” vào lòng đất. Con người đang mất dần niềm tin, niềm hy vọng vào “Đấng làm chủ trái đất cùng muôn loài muôn vật, làm chủ địa cầu và toàn thể dân cư…” Cuộc đua với sự phát triển của xã hội làm cho con người không có thời giờ “ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo” để nhận ra phẩm giá cao quý của mình và của người khác, “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy” (Tv 8,6). Tất cả đều như đang “trượt băng” trong sân băng cuộc đời, chú ý để lướt sao cho khéo cho hay để tồn tại được trên sân băng này. Còn hay không những người đang đặt lại cho mình những câu hỏi về ý nghĩa đời sống cá nhân và hướng đi cho cuộc sống của mình. Tất cả những biến động trào lưu của xã hội làm cho con người trở nên hời hợt trước những giá trị của khoảnh khắc đang qua đi, y như thể nó không có liên quan gì đến tương lai. Chính vì vậy, con người không đón nhận được những bài học tốt đẹp từ cuộc sống; không bắt chộp được cơ hội rèn luyện bản thân để có “nội công thâm hậu”. Nên một cơn gió thoảng nhẹ nhàng của những đạo lý sai lạc cũng đủ để đánh cho đời ta trôi dạt, không còn biết bám vào đâu cho vững. Một số thì nằm lì trên chiếc chõng êm ái của tiền tài, danh vọng, khoái lạc. Một số thì nằm bẹp trong sự nghèo nàn đói khổ không thể vực dậy của mình. Số khác thì an phận với cuộc sống tầm thường. Một số khác thì phải làm quen với cuộc sống xung đột chiến tranh.
Đức giáo hoàng Phanxicô viết: “Chúng ta hãy đi ra để cống hiến cho mọi người sự sống của đức Kitô. Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình” (Niềm vui của Tin mừng, số 49). Noi gương bốn người trong Tin mừng và lời nhắn gửi đầy thao thức của vị Cha chung, chúng ta cũng hãy sẵn sàng “bước ra khỏi cửa lòng mình” và can đảm “rẽ lối” cuộc đời mình, dù biết điều đó sẽ làm cho chúng ta bầm dập đau thương. Nhưng niềm hy vọng, một ngọn lửa nhỏ có thể làm cháy một cánh rừng sẽ là động lực cho ta tiến bước. Chúng ta dám lội ngược dòng đời! Khi con người đang xa rời Thiên Chúa, chúng ta hãy tiến lại gần Đức Kitô viên đá sống động. Hãy để cho Thiên Chúa dùng mỗi người như những viên đá sống động để xây lên con đường hy vọng, cùng nhau đạt đến Thiên Chúa. Chúng ta không coi việc thắp sáng hy vọng như một thực tại tùy ý hay tùy chọn trong cuộc sống của mình, nhưng đó là một mệnh lệnh bắt buộc dành cho môn đệ Đức Kitô. Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô: “Một khi trở lại anh hãy làm cho người khác vững tin”(Lc 22,34). Tương tự, Chúa cũng nhắn nhủ chúng ta: “Một khi đã thấm nhuần niềm hy vọng thì cũng hãy làm cho người khác biết hy vọng.” Thánh Phaolô khuyên: “Ơn riêng Thiên Chúa ban cho mỗi người, chúng ta phải biết dùng mà phục vụ người khác”. Vậy bạn và tôi phải sống thế nào để những ơn đó không trở nên vô hiệu và mọi hành động của chúng ta sẽ là câu trả lời cho những chất vấn của con người thời đại về niềm hy vọng của chúng ta.