Vui bước



_Maria_


Năm Thánh 2025 đối với tôi có nhiều ý nghĩa đặc biệt. Chủ đề của Năm Thánh là “Những người hành hương của hy vọng”. Đó dường như là chiếc phao cứu sinh cho tôi khi phải đối diện với một thế giới đầy biến động bởi những cơn dịch bệnh gây chết chóc hàng loạt. Những cuộc chiến tranh khốc liệt tàn ác khiến bao người mất đi người thân, nhà cửa, tài sản, phải bỏ lại quê hương xứ sở để tìm cách sống sót. Những trận thiên tai gây thiệt hại nặng nề ở hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới. Chủ đề của Năm Thánh là “Những người hành hương của hy vọng” mang đến cho tôi thật nhiều cảm xúc. Tôi là một nữ đan sĩ của Dòng Giảng Thuyết nhưng tôi cũng là một Kitô hữu và cùng với anh chị em của tôi trong Đức Kitô. Tôi là một người lữ hành trên đường hy vọng - một cuộc lữ hành đầy phiêu lưu.

Khi nhìn về quá khứ, tôi thấy hành trình của những người nữ Đan Sĩ Đa Minh đầu tiên mang đầy hy vọng, nhưng đó cũng là một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm. Họ được Chúa mời gọi không phải trong lúc bình an, cũng không phải trong cuộc hành trình biện phân tìm hiểu ý Chúa nhưng trong sự tội lỗi, vấp ngã và lạc xa đường lối của Chúa. Thật lạ lùng biết bao khi những nữ đan sĩ đầu tiên lại xuất phát từ những phụ nữ lạc giáo. Niềm hy vọng thực sự được chất chứa nơi thánh tổ phụ Đa Minh khi ngài muốn cho họ một tương lai tốt đẹp hơn, giúp họ tránh xa con đường cũ là đi theo lạc giáo. Ngài đã củng cố đức tin và giúp họ tiến lên trên con đường theo Chúa. Ngài hy vọng các chị em sẽ là hậu phương vững chắc để cầu nguyện cho sứ vụ của Dòng và của từng anh em. Trong Hiến pháp nền tảng của các nữ Đan sĩ Dòng Giảng Thuyết có viết: “Trong khi các anh em, chị em và huynh đoàn giáo dân thuộc về Dòng loan giảng danh thánh Chúa Giêsu Kitô khắp nơi trên thế giới”, thì các đan sĩ trong cô tịch tìm kiếm, suy niệm và khẩn nài Người, ngõ hầu lời từ miệng Thiên Chúa phán ra được hoàn tất chứ không trở về vô ích (x. Is 55,10). Tôi tự hào khi nhìn về quá khứ của các đan sĩ vì tôi đọc thấy niềm hy vọng trào tràn nơi họ. Những phụ nữ đầu tiên đó, họ đã luôn khao khát sống một cuộc đời đạm bạc, đơn sơ, nghèo khó để trở nên giống với Đức Giêsu hơn trong một Giáo hội của Chúa đang nhiễu nhương vì sự xa hoa lộng lẫy, phung phí của những chức sắc trong Giáo hội thời đó. Những người đáng lẽ phải là những gương sáng để cho đoàn chiên noi theo. Họ không có ai hướng dẫn và đã bị sa vào con đường lạc giáo. Nhưng khi được hướng dẫn và được hoán cải trở về với chân lý thì họ đã mau mắn vâng phục mà bước vào một đời sống kỷ luật để cầu nguyện cho Giáo hội và cho sứ vụ của Dòng. Con số các Đan viện thuộc về Dòng phát triển nhanh chóng. Hành trình của các nữ đan sĩ đầu tiên chắc chắn gặp biết bao thử thách gian nan. Nhưng trong những gian nan thử thách ấy, những người nữ đan sĩ Đa Minh bé nhỏ vẫn kiên cường vững bước, vẫn hy vọng và luôn tiến về phía trước. Nhờ có những bước phát triển mạnh mẽ và vững chắc ở trong quá khứ mà các Đan viện Đa Minh đã phân bố ở khắp các châu lục và cách đặc biệt là ở Việt Nam. Tuy các anh em Đa Minh có mặt ở giải đất hình chữ S này khá sớm nhưng các nữ Đan sĩ lại hoàn toàn vắng mặt. Đến tận năm 2014 đan viện Đa Minh Việt Nam đầu tiên mới được chính thức được thiết lập (sau 12 năm âm thầm hiện diện). Ngày nay, giữa một xã hội thực dụng, đời sống tu trì bị coi là lỗi thời, lạc hậu, không bắt nhập được với thời đại, không cập nhật được xu hướng. Con số các tu sĩ trên thế giới sụt giảm cách mạnh mẽ và các nữ đan sĩ Đa Minh dường như cũng không thoát khỏi vòng quay đó. Rất nhiều Đan viện trên thế giới phải đóng cửa vì không còn ơn gọi. Số các đan sĩ cao niên gấp đôi các đan sĩ trẻ. Trong bức tranh tưởng như ảm đạm đó, các nữ đan sĩ vẫn âm thầm vui bước trong ơn gọi của mình, ơn gọi nhỏ bé và dường như vô danh. Họ không bỏ cuộc nhưng kiên trì trong bổn phận của mình. Họ hòa mình nhưng không để hòa tan vào thời đại.

Mặc dù đối diện với hiện thực thế giới với nhiều gam màu tối nhưng tôi vẫn sống niềm hy vọng. Tôi hy vọng không phải vì nhìn được trước tương lai sẽ thay đổi và thế giới chắc chắn sẽ có hòa bình; đói kém, dịch bệnh, khủng bố sẽ không còn nữa. Nhưng tôi có niềm hy vọng vì dù quá khứ, hiện tại hay tương lai thì đều có Chúa hiện diện. Ngài là chủ của lịch sử, của thời gian. Thiên Chúa làm chủ chứ không phải bất cứ một ai khác. Khi chọn Phêrô làm thủ lãnh của Giáo hội, Chúa đã nói với ngài rằng: "Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” (Mt 16,17-18). Điều đó chẳng phải là minh chứng cho chúng ta hay sao? Lời hứa đó chẳng phải là nơi vững chắc để ta dựa vào hay sao? Chắc chắn, Chúa sẽ không hứa suông. Sống trong cộng đoàn của một Đan viện, tôi thấy mình được sống kinh nghiệm của các Tông đồ đầu tiên. Họ là một nhóm rất nhỏ chỉ gồm 12 người mà thôi. Một nhóm khởi đầu chẳng mấy thánh thiện, chẳng mấy giỏi giang, lại quê mùa và chủ yếu làm nghề đánh cá. Một nhóm môn đệ mà người ngoài nhìn vào sẽ thấy bát nháo, mất mặt, chẳng có tương lai. Vậy mà Chúa lại đích thân chọn những con người ấy. Chúa cho họ ở cùng, dạy dỗ, sai đi, đồng hành với họ và cả chịu đựng những lỗi lầm của họ. Chúa dám liều khi bước vào cuộc phiêu lưu với con người như vậy nên tôi tin và tin nhiều người khác cũng liều mạng như tôi để bước theo Giêsu trên con đường đáp trả. Cuộc hành trình nào cũng có những khó khăn dù di chuyển bằng bất cứ phương tiện nào, huống chi đây lại là của hành trình đến với Chúa. Hành trình của Thiên Chúa đến với con người không phải là con đường trải bằng hoa hồng, nhưng là con đường của thập giá nên con đường của con người đến với Chúa cũng sẽ không có những con đường của những sự thoải mái dễ dàng và không thử thách. Các Tông đồ khi bước theo Chúa chắc chắn sẽ không lường trước được những khó khăn rắc rối ở tương lai và chúng ta cũng không ngoại lệ. Chắc chắn sẽ có những nguy hiểm, những gian nan, những thử thách, nhưng chúng ta có mục tiêu là hành trình đó sẽ dẫn ta đến với Vương Quốc của Chúa. Trong hành trình trên đường Hy Vọng chúng ta không đi một mình nhưng đi cùng anh em trong Đức Kitô trên khắp thế giới. Dẫu biết là có người cùng đi nhưng nơi mỗi người đều có những nỗi sợ hãi. Sợ hãi khi phải ra khỏi chính mình, sợ hãi khi phải bỏ đi những cái quen thuộc của bản thân và thích nghi với những lợi ích của người khác hơn là của chính mình. Vâng, việc đó chẳng dễ dàng gì, nhưng những lời kinh Hòa Bình vẫn được hát lên với biết bao người: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Khi chọn đời sống đan tu có rất nhiều người nói với tôi rằng: sống ở trong đó thật là hạnh phúc, bình an vì không phải lo cơm áo gạo tiền, không phải lo lắng đòi hỏi của đời sống gia đình, không bận rộn, không phải lo lắng, không phải quan tâm đến những biến đổi của xã hội, cứ an toàn mà sống. Nhưng bản thân tôi ý thức được một điều là tôi không chọn đời sống này vì sự an ổn của bản thân. Tôi mượn tâm tư của một nữ đan sĩ đã viết rằng: “Tôi vào đan viện không phải để trốn tránh, để quên lãng thế gian, hoăc coi như thế gian không có nhưng là để hiện diện trong thế gian một cách sâu xa hơn, để sống giữa lòng thế giới, một cách ẩn giấu nhưng tôi tin là còn thực hơn. Tôi đến đây không phải để tìm một đời sống êm ả hay an toàn, nhưng để chia sẻ, để mang lấy vào thân những khổ đau, nhức nhối cũng như những niềm hy vọng của toàn thể nhân loại.” Cuộc đời của các đan sĩ đã được dâng cho Chúa và ơn cứu độ các linh hồn. Lời cầu nguyện cần thiết biết bao, nhưng để sống lời cầu nguyện đó đẹp lòng Chúa lại khó khăn biết dường nào vì tôi chưa phải là một vị thánh, tôi vẫn là một con người vẫn mang trong mình biết bao yếu đuối, tội lỗi.

Thời gian vẫn trôi và tiến về nơi mà Thiên Chúa muốn. Tạ ơn Chúa đã cho tôi được sống trong Năm Thánh. Hành trình tôi đi luôn có Chúa và các anh chị em. Cuộc hành trình đến với Chúa không phải là một cuộc hành trình dễ dàng nhưng là một cuộc phiêu lưu đầy táo bạo và đòi hỏi một sự dấn thân vào những mối tương quan mới với nhiều điều thú vị, nhưng không thiếu những nguy hiểm và rủi ro. Chấp nhận đi theo Chúa là chấp nhận bước vào con đường hẹp nhưng sẽ dẫn tới sự tự do của con cái Ngài. Mặc dù biết có khó khăn, tôi vẫn vui bước trên hành trình hy vọng, hành trình dẫn tới Thiên Chúa của tôi vì Người là cùng đích của cuộc đời tôi.