_Phó Thác_
Năm Thánh bắt nguồn từ thời Cựu Ước, được Thiên Chúa thiết lập như một thời gian đặc biệt để dân Israel sống trong sự tự do, công bằng và lòng thương xót. Theo sách Lêvi (Lv 25,8-55), cứ mỗi 50 năm, dân Chúa được mời gọi cử hành Năm Hồng Ân, trong đó các nô lệ được trả tự do, các món nợ được xóa bỏ, và đất đai được hoàn trả về cho chủ cũ. Đây là thời gian để tái lập công lý và hòa giải, khi mọi người được mời gọi sống trong sự tha thứ và tình yêu thương của Thiên Chúa.
Ý nghĩa của Năm Thánh trong Cựu Ước được kiện toàn trong sứ vụ của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu tuyên bố "Năm Hồng Ân của Chúa" (Lc 4,16-21), Người đã mặc khải rằng Năm Thánh không chỉ là một thực hành của luật Do Thái mà còn là thời điểm Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho toàn nhân loại qua cái chết và sự phục sinh của Người. Trong đời sống Kitô hữu, Năm Thánh trở thành thời gian đặc biệt để con người trở về với Thiên Chúa qua việc hoán cải, thống hối và lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Bí tích này là dấu chỉ cụ thể của lòng thương xót Chúa, nơi con người được tha thứ tội lỗi và được hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân, để bắt đầu một cuộc sống mới trong ân sủng và bình an.
Năm Thánh Hy Vọng là lời mời gọi mỗi Kitô hữu hãy đặt trọn niềm tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa, sống niềm vui và sự bình an mà Chúa ban tặng. Qua Bí tích Hòa Giải, con người được tái sinh trong ân sủng, được giải thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi và được mời gọi xây dựng cộng đoàn huynh đệ trong tinh thần yêu thương và tha thứ.
Tôi là một đan sĩ đang sống trong đan viện, nơi tôi được mời gọi bước vào hành trình sống đời tận hiến cho Thiên Chúa qua cầu nguyện, chiêm niệm và phục vụ. Đời sống đan tu là một ân huệ lớn lao, nhưng cũng là một hành trình đầy thử thách, nơi tôi phải đối diện với chính sự yếu đuối và mỏng giòn của bản thân. Trong hành trình ấy, Bí tích Hòa Giải đã trở thành một hồng ân đặc biệt, là nơi tôi cảm nghiệm sâu xa nhất về lòng thương xót và sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của mình.
1. Cảm nghiệm về sự yếu đuối và lòng thương xót của Thiên Chúa
Đời sống đan tu không phải là con đường dễ dàng. Dù được bao bọc trong khung cảnh thánh thiêng và được mời gọi sống trọn vẹn cho Thiên Chúa, tôi vẫn thường xuyên phải đối diện với những cám dỗ và giới hạn của bản thân. Tôi biết rằng không phải sống trong bầu khí thánh thiêng là tự nhiên tôi trở nên thánh thiện. Ngược lại càng sống cùng những người thánh thiện tôi lại càng thấy trở nên nhỏ bé và thấy trong tâm hồn mình còn đủ mọi thứ sân si. Đời sống đan tu không miễn trừ cho tôi khỏi vương vào những dục vọng của phận người. Tôi vẫn còn đó một con người bằng xác thịt có đầy đủ những cảm giác, ước muốn nơi trái tim và khối óc. Một phận người yếu đuối và mỏng giòn. Đôi khi, tôi cảm thấy mình rơi vào tình trạng khô khan trong cầu nguyện, có lúc lại bị chi phối bởi những tư tưởng tiêu cực, nóng giận, hoặc ganh tị. Những lúc như thế, tôi cảm thấy mình thật xa cách Thiên Chúa và không xứng đáng được Ngài yêu thương. Tôi đã tự hỏi: “Làm sao Thiên Chúa có thể chấp nhận một người tội lỗi như tôi?’’. Nhưng rồi, càng nhìn về bản thân tôi lại càng thấy bấy lâu nay tôi đã quá khổ sở, tôi đã làm nô lệ cho cái tôi tồi tệ của chính mình mà tôi không biết. Còn giờ đây, tôi cảm nhận được nơi tình yêu của Thiên Chúa, tôi được yêu thương một cách vô điều kiện.
Để tôi được tự do hạnh phúc, Thiên Chúa đã tự hạ mình xuống để cứu tôi bằng chính giá máu của người Con Một yêu dấu là Đức Kitô. Tạ ơn Chúa đã cho tôi sống trong năm thánh này. Nhờ đó, tôi có nhiều cơ hội nhìn lại chính mình: qua các tài liệu tôi tìm hiểu lại ý nghĩa của năm thánh. Tôi được nghe những bài giảng về năm thánh để nhận ra mình đang ở đâu? Đang sống trong tình trạng nào? Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32). Khi tôi nhận ra những yếu đuối của bản thân, tôi mới nghiệm ra rằng: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Tôi được mời gọi đến để hưởng tự do. Một tự do thánh thiêng mang giá trị to lớn. Đó là kế hoạch Thiên Chúa dành cho tôi: tôi cần phải là con người tự do, không điều gì khiến tôi thành nô lệ, đánh mất phẩm giá của tôi mà Thiên Chúa đã ban tặng nhưng không cho tôi trong ngày Người đưa tôi vào nhân thế này. Tôi là con Thiên Chúa, là con cái của Ánh Sáng, là con của Ân Sủng, được sống trong tự do và hạnh phúc. Để trở về với tình trạng Ân sủng ban đầu này, tôi phải không ngừng chiến đấu cho cái tự do phóng đãng bấy lâu của tôi. Thứ tự do của chủ nghĩa cá nhân, dẫn đến cô lập, ích kỷ, tự quy. Tôi không được sống trong cái “Xà lim” nội tâm của mình để tránh đi sự thông giao kết nối với Thiên Chúa, với tha nhân. Tôi cần chiến đấu. Để được tự do thật sự, tôi phải trả giá bằng chính tự do của tôi để vượt qua chân trời cá nhân. Tôi cần đến và gặp gỡ với Thiên Chúa, với chính mình và với tha nhân. Tôi sẽ không có được tự do đích thực nếu như tôi không để cho người khác cũng tự do trong cách sống của tôi.
Chính trong những khoảnh khắc yếu đuối của thân phận tội lỗi nơi mình, tôi được mời gọi trải lòng mình ra trước sự hiện diện thần linh của Chúa. Không chỉ trong nội tâm mà thôi, tôi còn được Thánh Linh Chúa dẫn bước vào tòa giải tội, để can đảm xưng ra những lỗi lầm của mình. Khi quỳ gối trước vị linh mục, tôi cảm thấy như mình đang đứng trước Thiên Chúa, trần trụi và không giấu được điều gì. Tôi xưng ra những thiếu sót, những yếu đuối của mình – những điều mà tôi đã cố che giấu. Những mặt nạ tôi đeo để ngụy trang bấy lâu tôi phải tháo bỏ. Tôi có thể che giấu được người khác nhưng tôi lại không lừa dối được chính tâm hồn mình. Hơn nữa, Thiên Chúa Đấng thấu suốt tất cả thừa biết mọi suy tính của tôi, tôi không tài nào che giấu nổi. Cho dù đôi lúc tôi không muốn che dấu Người, nhưng tôi chưa đủ can đảm để nói cho Người. Thì đây nhờ Ân sủng của Lòng thương xót, Ngài đã ban sức mạnh cho tôi để tôi mạnh dạn nhìn nhận con người thật của mình. Tôi không cảm thấy sợ hãi hay xấu hổ, mà thay vào đó là một cảm giác được giải thoát, được nhẹ nhàng như một đứa trẻ trong vòng tay của cha. Qua lời xá giải của vị linh mục, tôi nghe được tiếng nói của Thiên Chúa: “Ta không kết án con. Hãy đứng dậy và bước đi trong bình an.” Khoảnh khắc ấy, tôi cảm nhận được tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho mình. Ngài không kết án, không trách móc, nhưng Ngài yêu thương tôi ngay trong sự yếu đuối của tôi.
2. Cảm nghiệm về sự chữa lành nội tâm
Tôi xin kể lại đây một kinh nghiệm đầy ấn tượng trong tâm hồn tôi nơi tòa giải tội. Hôm đó khi bước chân ra khỏi tòa giải tội, lòng tôi tràn ngập bình an. Một cảm giác thư thái đến lạ lùng. Tôi như được hồi sinh, tâm hồn tôi nhẹ nhàng an vui. Bởi vì có những vết thương trong tâm hồn mà tôi đã mang theo trong nhiều năm – những tổn thương từ quá khứ, những lần thất bại và những nỗi đau khi phải đối diện với sự yếu đuối của bản thân. Tôi đã từng nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ có thể vượt qua được những tổn thương đó. Nhưng hôm nay, nơi tòa giải tội quen thuộc của đan viện trong Bí tích Hòa Giải, tôi đã được Thiên Chúa chữa lành một cách nhẹ nhàng và sâu xa. Vẫn nơi bàn tòa này, vẫn là con người tôi, vậy mà hôm nay tôi thật sự khác lạ. Tôi không còn là tôi của những ngày tháng u buồn trước kia nữa. Tôi đã khác. Tôi đã là con người mới. Mới trong Ân sủng, mới trong tương quan giữa tôi và Chúa, giữa tôi và người chị em và hơn thế nữa giữa tôi và chính tôi. Tôi được trở về tình trạng Ân sủng ban đầu mà Thiên Chúa đã ban cho tôi.
Thật vậy, khi lắng nghe lời khuyên của vị linh mục, tôi nhận ra rằng Thiên Chúa đòi hỏi nơi tôi sự hoàn hảo, nhưng Ngài muốn tôi phó thác hoàn toàn vào lòng thương xót của Ngài. Ngài biết tôi yếu đuối, nhưng Ngài vẫn yêu thương tôi. Tôi nhận ra rằng, khi tôi can đảm thừa nhận sự yếu đuối của mình và để cho Thiên Chúa can thiệp, Ngài sẽ biến những yếu đuối đó thành cơ hội để tôi được lớn lên trong đức tin và trong tình yêu. Sự tha thứ của Thiên Chúa không chỉ là một hành động pháp lý, mà còn là một sự đổi mới từ trong tâm hồn. Sự đổi mới nơi tâm hồn không phải chỉ một lần là đủ cho suốt cuộc đời đan tu của tôi. Tôi ý thức được rằng tôi cần lắm ơn Chúa nâng đỡ trong cuộc sống. Tôi cần lắm những ca phẫu thuật nội tâm đầy “kịch tính” nhưng luôn mạng lại những mầu nhiệm ẩn dấu thật vi diệu. Đôi khi tôi không nhận ra được những Ân sủng vẫn hoạt động trong tâm hồn tôi cách âm thầm lặng lẽ. Sự chữa lành mà tôi cảm nghiệm được không phải là một phép màu xảy ra ngay lập tức, nhưng là một quá trình Thiên Chúa dần dần thực hiện trong tôi qua từng lần lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Đã bao lần trong đời tôi đi xưng tội nhưng không phải lần nào tôi cũng cảm nhận được sự biến đổi ngay tức khắc. Nhưng tôi tin lòng Chúa thương xót luôn nâng đỡ và thánh hóa tôi. Đối với bản thân tôi, Chúa chỉ cần tôi đặt trọn niềm hy vọng vào lòng thương xót của Ngài và dám trao phó cho Ngài những yếu đuối tội lỗi của tôi. Khi đó tâm hồn tôi sẽ trở nên trống rỗng cho Ân sủng lấp đầy.
3. Cảm nghiệm về sự giao hòa với cộng đoàn
Đời sống đan tu là đời sống chung, nơi tôi được mời gọi sống trong sự hiệp nhất và yêu thương với chị em của mình. Tuy nhiên, có những lúc tôi đã vô tình làm tổn thương người khác bằng lời nói, hành động hoặc sự thiếu kiên nhẫn của mình. Những lúc như vậy, tôi cảm thấy bị giằng xé giữa niềm tự hào và sự mặc cảm. Giữa một bên là cuộc sống tràn đầy Ân sủng thánh thiêng của Thiên Chúa và một bên là con người tội lỗi của tôi. Tôi thật bất xứng. Qua Bí tích Hòa Giải, tôi học được rằng sự tha thứ không chỉ là mối tương quan giữa tôi và Thiên Chúa, mà còn là mối tương quan giữa tôi và chị em. Khi tôi lãnh nhận ơn tha thứ từ Thiên Chúa, tôi cũng được mời gọi mở lòng để tha thứ cho người khác và khiêm tốn đón nhận sự tha thứ từ cộng đoàn. Sau khi lãnh nhận Bí tích Hòa Giải, tuy tôi chưa có đủ can đảm để đến gặp một người chị em mà tôi đã làm tổn thương để xin lỗi và để có một cuộc trò chuyện chân thành. Nhưng trong sâu thẳm tôi cảm nhận được sự yếu đuối của mình đã được Thiên Chúa và người chị em đón nhận. Tôi không còn những suy nghĩ tiêu cực về người chị em nữa. Từ đó, tôi cảm thấy mối quan hệ của chúng tôi được củng cố và tình huynh đệ trong cộng đoàn được hàn gắn. Quả thật, Bí tích Hòa Giải không chỉ giúp tôi giao hòa với Thiên Chúa, mà còn là một phương tiện để tôi học cách sống yêu thương và tha thứ trong cộng đoàn. Khi đến với Bí tích Hòa Giải, không phải tôi thay đổi cách Thiên Chúa nghĩ về tôi, hay người chị em phải đón nhận tôi như tôi là. Ngược lại tôi lại nhận ra những yếu đuối, ích kỷ làm đổ vỡ nhiều tương quan đáng tiếc, sinh ra bởi những suy tư độc đoán, tiên kiến chủ quan của mình để từ đó tôi mong muốn thay đổi chính bản thân từ suy nghĩ cho đến hành động và cách sống của tôi.
4. Cảm nghiệm về sự hoán cải liên lỉ
Bí tích Hòa Giải là một lời mời gọi tôi bước vào hành trình hoán cải mỗi ngày. Sau mỗi lần xưng tội, tôi không chỉ cảm thấy được giải thoát khỏi gánh nặng của tội lỗi, mà còn nhận được sức mạnh mới để sống trung thành với ơn gọi của mình. Tôi ý thức rằng, sự hoán cải không phải là một khoảnh khắc, mà là một tiến trình liên lỉ. Mỗi lần lãnh nhận Bí tích Hòa Giải, tôi lại được mời gọi điều chỉnh lối sống của mình theo tinh thần Tin Mừng, sống khiêm tốn hơn, yêu thương hơn và quảng đại hơn. Sự hoán cải này không diễn ra nhờ sức riêng của tôi, nhưng là nhờ ơn thánh của Thiên Chúa. Qua Bí tích Hòa Giải, Thiên Chúa đổ tràn ân sủng và sức mạnh để tôi có thể vượt qua những cám dỗ và sống xứng đáng hơn với ơn gọi của mình. Dẫu biết rằng với con người đầy yếu đuối, tôi không ngừng phải đối diện với không ít những cám dỗ ở trần gian này. Rồi ngay khi tôi xưng tội có khi tôi lại lập lại lỗi đó. Thật vậy, chưa bao giờ tôi dám khẳng định mình sẽ không bao giờ phạm lại tội này nữa, nhưng không phải vậy mà tôi ngừng không đi xưng tội. Cuộc đời đan sĩ vẫn cần lắm những giây phút quỳ gối dưới chân vị Linh mục cầu xin lòng thương xót của Chúa thứ tha. Có lẽ, con đường mòn của tội lỗi vẫn ngay bên cuộc đời người đan sĩ.
Mỗi ngày tôi sống vòng tròn của bánh xe Tội - Hối - Xưng thú - Tạ ơn. Còn sống ở trên đời này tôi còn mắc lỗi, còn phải xin tha thứ, còn phải thay đổi chính mình. Điều thiết yếu là khi tôi còn phạm tội thì Thiên Chúa còn ban ơn tha thứ cho tôi. Kinh nghiệm được tha thứ như vậy sẽ giúp tôi mở rộng tâm trí để sẵn sàng tha thứ cho người khác. Tha thứ không thay đổi quá khứ, không sửa chữa được những gì đã xảy ra. Nhưng tha thứ cho phép tôi thay đổi tương lai và sống khác đi, không oán hận, không căm phẫn và không báo thù. Tương lai được tha thứ soi sáng sẽ cho phép tôi đọc quá khứ bằng đôi mắt khác, an nhiên hơn, ngay cả khi mắt vẫn còn đẫm lệ.
5. Kết luận
Bí tích Hòa Giải là một hồng ân lớn lao trong đời sống đan tu của tôi. Qua bí tích này, tôi cảm nhận được lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, sự chữa lành trong tâm hồn, sự hòa giải trong cộng đoàn và sức mạnh để sống đời tận hiến trong niềm vui và hy vọng. Tôi nhận ra rằng, Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi trong việc tha thứ, và Ngài luôn chờ đợi tôi trở về trong vòng tay của Ngài. Mỗi lần tôi sa ngã, Thiên Chúa không kết án, nhưng Ngài đưa tay ra để nâng tôi dậy và cho tôi bắt đầu lại từ đầu. Đó là kinh nghiệm sâu xa nhất về lòng thương xót của Thiên Chúa mà tôi đã cảm nhận được qua Bí tích Hòa Giải – nơi tôi được gặp gỡ Đấng là Tình Yêu và là Đấng duy nhất có thể chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn tôi. Thật vậy, Ân sủng nơi Bí tích Hòa Giải đã giúp tôi khám phá lòng thương xót của Thiên Chúa vô hạn đến mức nào. Không phải ngẫu nhiên mà vào thời xưa, thuật ngữ “lòng thương xót” và thuật ngữ “ân xá” có thể dùng thay thế cho nhau, chính xác bởi vì thuật ngữ này có ý diễn tả sự tha thứ trọn vẹn của Thiên Chúa, một sự tha thứ không giới hạn.
Bí tích Hòa Giải bảo đảm với chúng ta rằng Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của chúng ta. Những lời Thánh vịnh sau đây thật đầy sức mạnh an ủi: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà […] Chúa là Ðấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương […] Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.” (Tv 103,3-4.8.10-12). Bí tích Hòa Giải không chỉ là một ân huệ thiêng liêng tuyệt diệu mà còn là một bước quyết định, thiết yếu và không thể thiếu trên hành trình đức tin của mỗi người. Chính ở đó chúng ta để cho Chúa tiêu diệt tội lỗi của chúng ta, chữa lành tâm hồn chúng ta, nâng chúng ta lên và ôm lấy chúng ta, cho chúng ta biết được khuôn mặt dịu dàng và nhân ái của Người. Thật vậy, không có cách nào tốt hơn để biết Thiên Chúa cho bằng cách để cho mình được Người hòa giải (x. 2 Cr 5,20), và hưởng ơn Người tha thứ. Do đó, chúng ta đừng từ khước đi xưng tội, nhưng hãy tái khám phá vẻ đẹp của bí tích chữa lành và niềm vui, vẻ đẹp của ơn tha thứ tội lỗi!
