_Người Môn Đệ được Đức Giêsu thương mến._
1. QUÊ HƯƠNG
Khi Mây khoảng 5 tuổi thì một em bé chui ra khỏi bụng mẹ. Thế là nhà Mây có thêm một thành viên mới: ai cũng yêu em và gọi em là thiên thần vì em rất đáng yêu và bé nhỏ. Mẹ Mây bảo Mây rằng: "Ngày xưa con cũng như vậy đó, bây giờ lớn thế này rồi!”. Em được mẹ bế lên nhà thờ lãnh bí tích rửa tội được làm CON CHÚA. Khoảng mấy ngày sau, khi Mây đang ngủ, ngoài trời còn tối mịt, Mây nghe tiếng mọi người xôn xao ồn ào. Mây không thấy ai trong nhà nữa, nhìn ra ngoài cửa thì thấy mọi người đang đứng ở bờ sông. Mây định khóc, dù không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng bỗng nhiên Mây cố nín lặng và không dám khóc. Mây đi ra đứng sát vào chân mẹ và nghe mọi người nói chuyện. Thì ra, mấy bữa nay em bé cứ ngủ hoài, em chẳng khóc, cũng chẳng chịu bú mẹ. Mẹ tưởng em ốm thôi, nhưng đêm nay, mẹ có linh cảm không tốt, mẹ nhất định phải đưa em đi bệnh viện. Ở quê Mây, mỗi lần đi như vậy chỉ có thể đón đò, rồi người ta chở ra đầu kênh mới có bệnh viện và bác sĩ, lúc này trời đang tối lắm, ba của Mây cầm chiếc đèn dầu giơ cao ra lòng sông cho người lái đò thấy mà đón chở đi………
Mấy ngày ba mẹ đưa em đi bệnh viện, chị em Mây ở nhà với bà nội rất ngoan và rất nhớ em bé. Mấy ngày sau, cũng là lúc Mây đang ngủ thì nghe tiếng ồn ào. Mây chui ra khỏi giường và chạy ra ngoài rất mau: Em bé nằm ngủ yên trên cái bàn nhỏ có phủ khăn trắng, tay em đan lại chắp trên ngực rất yên lặng. Mọi người đặt phía đầu em một cây thánh giá, hai bên thắp hai ngọn nến trắng, mọi người vây quanh nhìn em. Mây đứng sát vào chân mẹ. Mây không thấy mẹ khóc nhưng mắt mẹ đỏ ngầu và mẹ buồn lắm. Em bé của nhà Mây, về với Chúa rồi!
Hôm mọi người cho em vào cái hòm nhỏ, đem lên nhà thờ dâng lễ, rồi đưa em ra nghĩa trang, Mây thương nhớ em không kể xiết nhưng mây không khóc một chút nào. Mây nghe những người lớn nói chuyện với ba mẹ: “Nhà anh chị thật có phúc vì đã có một người trong gia đình làm Thánh rồi, vì em bé mới lãnh bí tích Thánh Tẩy, được làm con Chúa xong thì về thiên đàng ngay rồi." Người khác thì rằng: “Em về quê Trời trước, là để phù hộ cho gia đình đấy! ..." Hôm nay, Mây mới để ý mà nhìn các nấm mộ ở nghĩa trang, mỗi nấm mộ mang một tấm hình. Có một khuôn mặt người nào đó mà ba Mây nhìn rất kỹ - hình ông nội, người mà Mây chưa gặp bao giờ, mà đó là người đã sinh ra ba của Mây. Những người đang chôn ở đây cùng với ông nội và em bé của Mây cũng từng sống như Mây bây giờ... đến lúc đã rời bỏ thân xác này rồi linh hồn đã bay về QUÊ TRỜI VỚI CHÚA. Không biết những đứa trẻ khác có sợ chết không, còn Mây từ khi ấy, Mây lại thấy đó là một điều rất đặc biệt: Mây nhìn lên bầu trời vô tận cao xa: Và rất hạnh phúc khi nghĩ rằng: "Đó là QUÊ HƯƠNG mình sẽ trở về".
2. BƯỚC ĐI
Một lần kia trong Thánh Lễ, sau khi công bố Lời Chúa, cha xứ đã hỏi đố rằng: “Tin Mừng cha vừa đọc xong kể về chuyện gì vậy? Trong nhà thờ có rất nhiều cánh tay giơ lên, nhưng cha lại đến chỗ Mây và nghe Mây trả Lời (có lẽ trong số những người giơ tay, Mây là bé nhất). Đối với Mây lúc ấy câu chuyện mà cha vừa đọc là rất thật, nên lúc nghe Mây rất thích và tự nhiên ghi nhớ, lại còn chuẩn bị và chờ đợi rằng lúc nào đó chuyện ấy cũng xảy ra với mình. Đó là câu chuyện Chúa Giêsu sống lại, mà lúc ấy có hai môn đệ của Chúa không tin nên đã bỏ về quê, đang trên đường đi buồn bã và thất vọng thì Chúa Giêsu đi bên cạnh hỏi chuyện, rồi cắt nghĩa Kinh Thánh cho hai ông... Chúa Giêsu giả vờ đi xa hơn, nhưng hai ông mời Chúa ở lại, và khi Chúa bẻ bánh, thì họ nhận ra Chúa nhưng Chúa biến đi mất! Mây trả lời Cha xong thì cả nhà thờ vỗ tay, cha khen em bé còn nhỏ mà dự lễ rất ngoan, lại còn chú ý ghi nhớ Lời Chúa.
Thực ra Mây không luôn chú ý và cũng không ngoan giỏi để nhớ mà tự nhiên với câu chuyện này thì Mây lại nhớ vậy thôi. Từ đó, những khi đi lễ một mình, trên đường quê vừa vắng vừa tối, Mây không sợ, nhưng luôn mong chờ một lúc nào đó Chúa sẽ hiện đến đi bên cạnh mình. Mây sẽ hỏi Chúa rất nhiều điều mà Mây thắc mắc trong trí ngây thơ của đứa trẻ nhỏ như Mây.... Nhưng điều chính yếu là Mây mong gặp được Chúa thôi.
3. LỚN LÊN
Nhà Mây chuyển lên thành phố ở. Đây là một thế giới hoàn toàn khác lạ mà xưa nay Mây chưa bao giờ hình dung ra: nào là những con đường luôn luôn có xe chạy ngược xuôi không ngừng, nào là một nơi toàn nhà là nhà, không có một đồng lúa hay dòng sông nào. Điều mà Mây ngạc nhiên nhất là có những người không biết Chúa là ai và họ thờ những ông béo mập (ông địa) trong góc nhà rồi còn cắm thuốc lá vào cho ông ấy nữa... Những điều lạ lùng này gây nên trong Mây một lo âu và buồn sợ khó tả, nhưng Mây không nói hay hỏi ai về những điều ấy. Rồi sau đó, Mây được học Giáo Lý, xưng tội rước lễ lần đầu. Thì ra được biết "Chúa là Cha yêu thương và dựng nên mọi người" là ơn Đức tin do Chúa ban cho, chứ không phải đương nhiên ai cũng nhận biết và theo Chúa như xưa nay Mây vẫn tưởng như vậy. Mây cám ơn Chúa lắm và thầm nghĩ rằng: "Ôi! mình sẽ sống như thế nào đây và không biết sống để làm gì nếu không biết có Chúa!?"
Nhưng từ hồi xưng tội rước lễ lần đầu, Mây rất sợ hãi mỗi khi phạm tội, vì Mây thường nghi ngờ có thể tội mình phạm đó là tội trọng, mà tội trọng ở trong linh hồn mình sẽ làm mình trở nên xa cách, cắt đứt tình nghĩa với Chúa. Nỗi sợ này làm khổ Mây rất nhiều. Một lần kia, Mây không dám rước lễ. Sau lễ, Mây xếp hàng với mọi người, toàn là người lớn, rồi Mây xưng tội. Mây vừa xưng tội vừa run và mới nói được câu: "Thưa cha con xưng tội… thì cha thò đầu ra bắt vào quỳ trước mặt, cha bảo: “Bé Mây! Con không biết ngày nào cha giải tội cho thiếu nhi sao?" Con bé sợ quá nước mắt tràn trề, không biết nói gì cha liền đổi giọng ân cần:“Lần này cha tha cho, lần sau đi học giáo lý phải để ý nghe cha và anh chị thông báo nhé!". Lúc đó, Mây mới kể thật. Không phải Mây không biết ngày xưng tội của thiếu nhi, nhưng Mây sợ mang tội trong người, Chúa sẽ ghét bỏ Mây và Mây không được rước lễ. Cha cầm tay Mây đang quỳ dưới chân: "Con ơi! Chúa rất thương con, dù con phạm tội gì đi nữa, Chúa cũng không bao giờ ghét bỏ con, con hãy luôn nhớ Chúa thương con, con chỉ cần xin lỗi và dốc lòng chừa tội vì đã làm Chúa buồn, thì Chúa đã tha ngay rồi, không được sợ Chúa nghe không?!... Hình như Cha còn nói những điều khác nữa nhưng Mây chỉ nhớ cha lặp lại nhiều lần rằng: “Chúa rất thương con”, rồi Mây chưa xưng ra tội gì mà cha đã ban phép lành giải tội và dặn Mây:“Khi con hối hận vì con yêu mến Chúa thì Chúa tha rồi nên con cứ an tâm rước lễ nhé!". Từ đó, Mây nhớ luôn: "Chúa thương con hơn cả ba mẹ thương con! "Mây vẫn sợ tội.... nhưng hình như những lúc “phạm tội” Mây không hề nghĩ đó là tội. Một trong số đó là tội này: “Hồi đó, hầu như trong xóm Mây ở, không nhà nào có điện thoại, vậy mà ba mẹ của Mây đã sắm một cái điện thoại và được nghe điện thoại là điều cực kỳ thú vị đối với chị em nhà Mây. Những khi khách hàng của ba mẹ gọi tới tiếng chuông điện thoại reo lên thì chị em Mây dù bất cứ ở đâu cũng chạy thật nhanh lại đó, dành nhau nhấc điện thoại để được nghe và nói vào điện thoại: "Alô! cô (bác) là ai đấy, cô (bác) cần gặp ai ạ?...."
Bữa nọ Mây và em trai của Mây biết được rằng tất cả các số điện thoại có số 88 ở đầu đều được gọi mà không bị tính phí. Mà hai chị em lại thèm nghe điện thoại quá nên rủ nhau chở nhau chạy ra ngoài đường lộ viết các số điện thoại ở các cửa hàng vào tờ giấy nhỏ rồi chờ bố mẹ đi vắng, hai chị em tự bấm máy, gọi cho người ta, hỏi người ta rồi nói lung tung, rồi tắt điện thoại, rồi lại gọi cho số khác… có người ở đầu dây bên kia hỏi nhau, rồi hỏi lại, rồi có người tức giận chửi cho... hai chị em lấy làm thích thú cười rũ rượi. Được vài cuộc điện thoại như thế, thì bỗng nhiên có người gọi đến, giọng của người này rất bực bội, lại không xưng ra là ai. Mây cố gặng hỏi xem bác đó có nhắn tên lại để về thưa cho bố mẹ gọi lại nhưng người đó nhất định chỉ hỏi khi nào ba mẹ về, rồi chốc chốc người đó gọi lại cũng với giọng bực bội và không xưng tên như lần trước. Tự nhiên hai chị em Mây "tỉnh ra": “Thôi chết mình rồi, gọi tới máy điện thoại nhà người ta mà lại là máy xịn, nó có lưu lại số điện thoại nhà mình, bây giờ họ gọi lại để méc ba mẹ mình…” Mới đó, hai chị em thích thú cười vang nhà, mà giờ đây dúm lại trong góc nhà, buồn và sợ quá sức: “Tội này rất lớn vì là tội láo với người lớn, chắc cả hai chị em sẽ ăn đòn nên thân”. Nghĩ đến trận đòn và cảnh hai chi em sẽ phải đến nhà người ta mà xin lỗi, hai chị em ngồi bên nhau mà run và tìm cách năn nỉ bố mẹ. Bỗng nhiên thằng em trai của của Mây mặt mày tươi tỉnh và đầy hy vọng, nó bảo Mây: “Chị ơi! hai chị em mình đọc kinh và xin Chúa quan phòng đi!” Mây lấy làm lạ vì không biết thằng em nó học ở đâu cái ý nghĩ “Cầu xin Chúa Quan Phòng" và Mây cũng không biết làm gì hơn hay nghĩ gì về ý nghĩa của lời đề nghị đó. Ba mẹ Mây sắp về rồi. Mây run quá nên nghe theo em, rồi hai chị em cứ thế mà đọc Kinh kính Mừng theo ý chỉ của em Mây: “Xin Chúa Quan Phòng…” Đến chiều ba mẹ của Mây mới về, thằng em của Mây không biết nó quên hay nó tin "Chúa Quan Phòng" cho nó rồi mà nó cứ vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra. Còn Mây thì vẫn nơm nớp lo sợ không biết người lạ kia có gọi lại không. Một ngày, hai ngày… thật lạ lùng là không thấy người đó gọi lại và tội tày đình kia của hai chị em đã được "CHÚA QUAN PHÒNG” tha bổng cho. Sau này, được học hiểu, Mây mới thấy ý nghĩa của ơn Chúa Quan Phòng chẳng ăn nhập gì với ý chỉ và lòng tin mà thằng em của Mây (không biết ai dạy nó, hay nó nghe ở đâu) đề nghị với Mây trong cái biến cố dại dột ấy của hai chị em!!? Tuy nhiên, khi Mây nhớ lại chuyện này thì thêm tin tưởng rằng: “Chúa hằng nghe lời cầu nguyện của những ai ăn năn sám hối dù đó là những tâm tình rất đơn sơ vụng về và chưa đúng đắn…”
4. TRƯỞNG THÀNH
Mây vào học trường Cao Đẳng. Nếu ngày xưa chỉ vài nhà hàng xóm của Mây không tin không biết Chúa, thì bây giờ trong môi trường rộng lớn hơn của cái xóm nhỏ ấy, người không tin không biết Chúa nhiều hơn người biết Chúa. Trong lớp của Mây, chỉ vài bạn có đạo thôi. Thậm chí, khi học môn Triết, Mây rất buồn và hoang mang khi biết rằng có cả một hệ thống tư tưởng mà xã hội đang tuyên truyền và bây giờ Mây đang phải học nó rằng: “Chỉ có cuộc sống bây giờ thôi còn các vị thần hay tôn giáo hay Thiên Chúa chỉ là nhu cầu con người tự chế tác ra để an ủi tinh thần mình thôi!". Lý lẽ của thầy dạy môn này rất sắc sảo, thầy giáo đưa ra những vấn nạn rất thực tế về Thiên Chúa, cuối cùng để cho thấy rằng không có Thiên Chúa nào cả và con người với khả năng phải tự mình để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Thầy còn mạnh mẽ cho rằng chính vì yếu kém mà con người tạo ra Thiên Chúa. Cũng vào thời điểm đó, mọi người xôn xao về cuốn tiểu thuyết mật mã Da Vinci đang được dịch và bán trên nhiều quốc gia và Mây cũng thấy bán tràn lan trong các nhà sách. Mây không đọc nó nhưng nghe nói rằng nó dựa vào bức tranh Da Vinci vẽ về bữa tiệc ly để giải mã các bí mật về Chúa Giêsu. Những điều được kể trong đó rất "khoa học" và "hợp lý" để nói về Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với những chân lý đức tin và những gì được viết trong Kinh Thánh… Rất nhiều những chất vấn, vô hình ồ ạt đánh vào tâm hồn Mây, Mây không thể tự trả lời được cho chính mình về những lý luận rất “rõ ràng" của những tư tưởng đáng sợ kia, đến nỗi có lúc Mây đau đớn nghĩ rằng: “Mình sẽ không biết phải sống ra sao nếu không có Thiên Chúa, không có Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người đã chịu chết và sống lại để mình được yêu và được sống đời đời…” Từ trước đến nay đối với Mây, cuộc đời trên trái đất này là cuộc lữ hành, là một đoạn đường ngắn, một phần sống bé nhỏ của sự sống mà thôi!
Mây “nghe” niềm tin vào Thiên Chúa và sự sống sau cái chết trong tâm hồn mình sống động như sự cần thiết của hơi thở, âm thầm, tự nhiên, vô hình nhưng không thể thiếu được để sống. Nhưng tất cả chỉ là lòng tin! Mây thấy mình lọt thỏm, yếu ớt và bất lực trước lý lẽ khôn ngoan của người đời: “Tại sao Thiên Chúa vừa quyền năng làm được mọi sự vừa yêu thương con người mà lại để con người phải chịu đau khổ, bất công, sự dữ…” Chỉ có điều hạnh phúc này là: dù xảy ra "biến động” đến mấy trong tâm hồn thì khi đến giờ Mây ngồi lại bên nhà tạm, nhìn lên cây Thánh giá, lúc đó đầu Mây chẳng còn nghĩ gì cả, nhưng rõ ràng nơi đây có MỘT NGƯỜI đang nhìn Mây và thương Mây. Giống như đứa trẻ lạc hốt hoảng vì mất mẹ nhưng giờ được ngồi vào lòng mẹ thì chẳng nghĩ gì nữa. Nhưng mỗi ngày Mây cũng chỉ có chút ít thời gian nghỉ ngơi đến với Chúa, còn những lúc khác, tư tưởng và cuộc sống ồn ào vẫn bày vẽ những nghi nan muôn hình vạn trạng của nó. Có lần Mây về nhà thăm mẹ, Mây làm bộ tình cờ hỏi mẹ: “Mẹ ơi! Mẹ có nghe người ta nói về cuốn tiểu thuyết Mật Mã Da Vinci không? Mẹ có sợ đọc quyển đó rồi mẹ sẽ mất đức tin không?". Mẹ Mây trả lời ngay: "Mẹ không đọc, không phải vì mẹ sợ nó làm mẹ mất đức tin, mà vì mẹ không muốn nghe thấy người ta xúc phạm đến Thiên Chúa của mẹ.
“Mẹ ơi! Nhưng lỡ Chúa không thương mình như mình nghĩ thì sao? Sao Chúa để nhiều người phải chịu bất công và đau khổ vậy?
"Mẹ dốt nát lắm, mẹ không trả lời được mấy câu hỏi đó đâu nhưng mẹ cứ nghĩ: “Trên thế giới này bao nhiêu người thông giỏi và cả những nhà bác học nữa người ta vẫn nhận Chúa, tin vào Chúa, rồi bao nhiêu người dám chết vì yêu mến Chúa, mình đâu có khôn giỏi hơn các vị ấy, đâu có vĩ đại thánh thiện để chân thành học hỏi, ra công tìm kiếm Thiên Chúa như các vị ấy đâu mà đòi phải lý lẽ này nọ với Chúa, chưa kể đến riêng cuộc sống của mẹ, mẹ không thể dối lòng rằng: “Không có Thiên Chúa! Vì thực sự có Chúa và Chúa thương mẹ lắm!”
Mây ôm chầm lấy mẹ: "Mẹ ơi! Mẹ truyền sang cho con cái ‘dốt nát’ của mẹ đi!". Mây đã cố gắng che dấu những xúc động bằng nụ cười thật tươi nhưng Mây bỗng bật khóc. "Mẹ không thể dối lòng! vì thực sự có Chúa và Chúa thương Mẹ lắm!" Những lời xác tín chân thật từ cõi lòng của mẹ đã mở ra cho Mây một chân trời vô tận của những thực tại Thần Linh mà Thiên Chúa cho con người thông dự vào, nó không dừng lại ở những gì tai nghe mắt thấy của vật chất, thành công, may mắn... (vì thực sự lúc ấy gia đình Mây đang trong những tháng năm đầy sóng gió, nhà Mây đang trong cảnh nghèo túng thất bại, ba mẹ Mây đang phải chịu cảnh tủi nhục vì thất bại nợ nần). Chân trời ấy mở ra hàng hàng lớp lớp những chứng nhân của Tình yêu Thiên Chúa. Từ khi Chúa Giêsu chịu chết khổ nhục trên Thánh giá để chuộc tội cho nhân loại rồi Người sống lại và hiện ra với các Tông đồ. Các Ngài đã sẵn sàng chịu mọi đau khổ và tra tấn hành hạ để làm chứng cho Chúa; rồi qua các thế hệ, các thánh tử đạo, các thánh tiến sĩ, các thánh hiển tu, những người như Thánh Maximiliano Kolbe, Mẹ Têrêsa Calcutta đã trở nên "nhân chứng hữu hình" của Chúa trong thế giới qua mọi giai đoạn của lịch sử nhân loại. Mây không thể nào đối đáp với sự khôn ngoan của thế gian để chứng minh về Thiên Chúa. Nhưng Mây quyết sẽ trở thành một trong các chứng nhân của Chúa như các ngài. Mây sẽ dành cả cuộc đời chỉ để tìm Chúa, phụng sự và ca tụng Chúa thôi!
Rồi Mây thầm thì trong lòng: “Lạy Chúa! Con trông cậy vững vàng” vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu Kitô thì Chúa sẽ ban ơn cho con giữ đạo nên ở đời này, cho ngày sau được lên Thiên Đàng xem thấy mặt Đức Chúa Trời hưởng phúc đời đời. Vì Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy chẳng có lẽ nào sai được. Amen.